Trần Đăng Khoa sinh ngày 26/4/1958 trong một gia đình nông dân tại thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (cũ). Với khát vọng “Em suốt đời làm thơ”, Trần Đăng Khoa đã đóng góp cho nền văn học nói chung, nền văn học thiếu nhi nói riêng nhiều bài thơ đặc sắc. “Trăng sáng sân nhà em” là một trong những bài thơ đầu tay của Trần Đăng Khoa, được viết năm 1966.  Lúc làm bài thơ này, nhà thơ chỉ mới 8 tuổi, là một cậu học trò nhỏ xíu nhưng đã được coi là một thần đồng về thơ. Bằng những “nét vẽ có thần, bài thơ “Trăng sáng sân nhà em” hiện ra như một bức tranh làng quê lung linh và huyền diệu.

Suốt cả tuổi thơ của mình, Khoa luôn gắn bó với quê hương, đồng ruộng, với góc sân và mảnh vườn. “Từ góc sân nhà em”, Khoa đã nhìn, đã ngắm và đã đưa vào thơ những hình ảnh hết sức quen thuộc, thân thương của làng quê Việt nam. Đó là hình ảnh về mảnh sân, ánh trăng, hàng chuối, hàng cau, con chim, con sâu... Tất cả hòa quện vào nhau tạo nên một vẻ đẹp rất riêng của nông thôn Việt Nam.

T11 C Yen 4 11 1

Ai sinh ra và lớn lên ở thôn quê mới hiểu hết được giá trị của cái sân đối với người nhà nông. Ở nông thôn, cái sân là hình ảnh hết sức quen thuộc và gắn bó với mọi người. Đối với người nhà nông, sân là nơi phơi thóc và tối đến có thể ngồi ăn cơm, uống nước, rồi tiếp khách,... Đối với trẻ con, sân là cả một thế giới, một vũ trụ đầy những bí mật. Còn đối với Trần Đăng Khoa, cái sân có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là nơi ghi dấu bao nhiêu kỉ niệm về quê hương, về tuổi thơ, là nơi khơi gợi niềm cảm hứng và tứ thơ cho anh. Không phải ngẫu nhiên mà tập thơ đầu tay của Khoa lại có tên “Từ góc sân nhà em”, rồi “Góc sân và khoảng trời”. Trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời” đã có hơn chục bài thơ Khoa viết về cái sân:

“ Góc sân nho nhỏ mới xây

Chiều chiều em đứng nơi này em trông

Thấy trời biển biếc mênh mông

Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy”

(Góc sân và khoảng trời)

Hay

“ Em thường rải cái nong

Ra giữa sân ngồi học

Những đêm có trăng mọc

Em chơi cho đến khuya…”

(Cái sân)

Và trong bài thơ này, hình ảnh cái sân thấm đẫm ánh trăng được lặp đi lặp lại nhiều lần qua tiếng reo của cậu bé Khoa:

“Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em…”

Bằng cách sử dụng hai từ đồng nghĩa “tỏ” và “rõ” ở hai câu thơ đi liền nhau, độ sáng của vầng trăng như được nhân lên và mặc sức lan tỏa. Trăng sáng đến mức cái sân như được rọi chiếu từ mọi góc, mọi phía và hiện rõ lên mồn một dưới ánh trăng.

Tuy vậy, ở bài thơ này, cái sân chưa phải là hình ảnh trung tâm mà nó chỉ là điểm tựa, là góc nhìn, là nơi gợi niềm cảm xúc để nhà thơ tí hon ngắm trăng và miêu tả về trăng. Ai đã từng sống ở nông thôn trong những năm tháng chưa có ánh sáng của điện, phải trải qua những đêm trời tối đen như mực mới thấy hết được giá trị và vẻ đẹp của vầng trăng, trăng được ví như “người khách đặc biệt” của thôn quê. Cũng chính vì thế hình ảnh vầng trăng xuất hiện rất nhiều trong thơ Khoa. Trăng gần gũi với Khoa đến mức cậu có thể nghe được tiếng thở của nó - “Nghe trăng thở động tàu dừa”, rồi nửa đêm tỉnh dậy, Khoa lại thấy “Loáng vỡ ánh trăng vàng” và đã có lúc, cậu ngẩn ngơ, thắc mắc hoài “Trăng ơi… từ đâu đến ?”, sao  “Trăng  hồng như quả chín”, “trăng tròn như mắt cá”,…Có lẽ chỉ có trẻ em ở nông thôn mới có cơ hội cảm nhận được nét đẹp tinh nguyên, trong trẻo của đất trời, của cảnh vật vào những đêm trăng sáng, điều mà trẻ em ở thành phố khó có cơ hội để thưởng thức.

Chờ trăng, ngắm trăng dường như đã trở thành cái thú của cậu bé Khoa. Cũng chính vì vậy, bài thơ mặc dầu không trực tiếp miêu tả về người ngắm trăng, nhưng khi đọc kĩ các câu thơ, chúng ta lại cảm nhận rất rõ cái rạo rực, hân hoan của người ngắm trăng qua lời nhận xét:

"Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn.

Cái rạo rực, hân hoan của người ngắm trăng dường như đã lan nhanh sang cảnh vật:

“Hàng cây cau lặng đứng

Hàng cây chuối đứng im

Con chim quên không kêu

Con sâu quên không kêu”

Mọi vật dường như cũng ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của vầng trăng: cây cau -  lặng đứng, cây chuối - đứng im, con chim - không kêu, con sâu - không kêu. Mọi vật như chìm đi cho sự thức dậy của trăng và chỉ có trăng thôi. Trăng thống soái, ngự trị và cuốn hút toàn cảnh vật. Trời càng về khuya, trăng càng sáng, mọi vật như lặng đi trước vẻ đẹp huyền diệu của trăng.                                                                                                                           

Cái tài của Trần Đăng Khoa là ở chỗ không đi vào miêu tả trực tiếp trăng đẹp như thế nào, huyền diệu ra sao, mà vẻ đẹp của ánh trăng được lột tả qua sự chiêm ngưỡng của hàng cau, hàng chuối, con chim, con sâu,… Không phải ngẫu nhiên, trong muôn vàn các con vật, Trần Đăng Khoa lại chọn con chim và con sâu, mà theo tác giả cho biết, là vì: “Chim ở trên trời, sâu ở dưới đất. Cả trời đất đều tĩnh lặng, tự quên mình, đến nỗi có cảm giác tất cả tan biến đi, chỉ còn trăng thôi”. Cái biệt tài của Trần Đăng Khoa còn là ở chỗ chỉ bốn câu thơ, với một số lượng từ ít ỏi, được viết bằng nghệ thuật lặp cấu trúc, lặp ý tài tình, Trần Đăng Khoa đã diễn tả được sức hút mãnh liệt từ vẻ đẹp của vầng trăng. Bốn câu thơ trên suy cho cùng đều diễn tả: mọi vật đều ngừng hoạt động để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của vầng trăng. Phải là một con người có tâm hồn nhảy cảm, có óc quan sát tinh tế và đặc biệt phải là người có tình yêu đối với thiên nhiên, cảnh vật sâu sắc, Trần Đăng Khoa mới có thể miêu tả trăng đẹp đến như vậy.

Với nghệ thuật lặp cấu trúc, lặp từ ngữ, bài thơ đã có được âm hưởng và giai điệu của một bài đồng dao dễ thuộc, dễ đi vào lòng trẻ thơ:

Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em…

Hàng cây cau lặng đứng

Hàng cây chuối đứng im

Con chim quên không kêu

Con sâu quên không kêu

Chỉ có trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em…

Có thể nói “Trăng sáng sân nhà em” là một bài thơ ca ngợi vẻ đẹp thôn quê bằng những “nét vẽ” có thần. Bài thơ thể hiện dưới một dạng kết cấu lặp đặc sắc, như một bài đồng dao dễ hiểu, dễ thuộc; đồng thời nó cũng ẩn chưa khả năng rung động và quan sát nhạy cảm, tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình Văn học trẻ em, NXB ĐHSP.

[2]. Vũ  Dương Thụy (tổng biên tập) (2002), Thơ chọn với lời bình. Nhà XB GD