TÓM TẮT
Phát triển năng lực tự học, trọng tâm là nâng cao năng lực tư duy sáng tạo cho sinh viên là nhiệm vụ quan trọng của công tác Giáo dục Chuyên nghiệp nói chung và dạy học ở đại học, cao đẳng nói riêng. Đồng thời nó cũng là mục tiêu hướng tới của công cuộc đổi mới phương pháp dạy và học đang được đặt ra trong toàn ngành Giáo dục và Đào tạo. Muốn phát huy một cách tối đa năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên, trong quá trình giảng dạy, người thầy phải luôn lấy việc học của học sinh làm đối tượng trung tâm của quá trình giảng dạy, phải tìm ra con đường, cách thức để người học tự chiếm lĩnh tri thức và vận dụng được tri thức vào thực tiễn. Bài viết của chúng tôi đi vào trình bày về phương pháp phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học qua học phần Tiếng Việt .
I. Phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên là mục tiêu của công cuộc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường đại học, cao đẳng
Học là một quá trình trong đó dưới sự định hướng của người dạy, người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và tay chân, nhằm hình thành cấu trúc tâm lí mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện. Học là công việc của người học, do người học - không ai có thể thay thế họ và chỉ có họ mới tạo ra sự thay đổi cho chính mình .
Như vậy, học đã là hàm chứa tự học. Và tự học không có nghĩa chỉ là việc học ngoài giờ lên lớp, mà tự học ở đây còn là hoạt động học diễn ra trên lớp dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của người thầy, người học phải động não, tìm tòi, phát hiện, phân tích, khái quát để chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng chính tư duy của mình. Nhưng để học có hiệu quả và tránh rơi vào tình trạng mò mẫm thiếu cơ sở thì việc học cần phải có sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của người thầy. Bởi vậy, hoạt động học cần phải được diễn ra trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với hoạt động dạy của thầy. Mối quan hệ này có thể diễn ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tùy vào mức độ tự lực và trình độ của người học. Điều này cũng có nghĩa là kết quả tự học của người học không chỉ phụ thuộc vào trình độ, năng lực của người học, mà còn phụ thuộc vào khả năng, kinh nghiệm tổ chức, hướng dẫn việc học của người thầy .
Để phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên (SV), giáo viên (GV) cần phải có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy và cần phải đổi mới ngay trong từng phân môn, qua từng bài học cụ thể. Đặc biệt, đối với các trường đại học, cao đẳng Sư phạm - nơi đào tạo nghề đặc thù Sư phạm, đào tạo ra những giáo viên, những người thực hiện nhiệm vụ dạy học trong tương lai thì việc đổi mới phương pháp dạy học không chỉ có tác dụng nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên mà còn góp phần bồi đắp năng lực sư phạm cho họ. Và trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy, chúng ta cần phải có cái nhìn biện chứng đối việc lựa chọn phương pháp. Theo chúng tôi, không có một phương pháp riêng lẽ nào là độc tôn, tối ưu mà phương pháp tốt nhất là vận dụng các phương pháp một cách linh hoạt. Phải biết tùy tình huống, tùy đối tượng người học, tùy nội dung chương trình và từng bài học cụ thể... mà vận dụng linh hoạt phương pháp giảng dạy, phương pháp tổ chức sao cho người học không ngừng động não, tìm tòi, phát hiện, phân tích, khái quát để tự chiếm lĩnh tri thức khoa học. Lý luận và thực tiễn dạy học đã chứng minh: ở đâu có sự tham gia tích cực của người học vào quá trình tìm kiếm tri thức thì ở đó tri thức được lĩnh hội một cách vững chắc hơn, hiệu quả nhận thức cao hơn.
II. Một số phương pháp nhằm phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học qua học phần Tiếng Việt
Để phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho SV, chúng ta có thể sử dụng được rất nhiều phương pháp, nhưng trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ xin trình bày một số phương pháp mang tính đặc thù riêng của môn Tiếng Việt .
1. Tổ chức, hướng dẫn cho sinh viên tự lĩnh hội kiến thức ngôn ngữ học về tiếng Việt dưới góc độ là một "nhà nghiên cứu"
Dạy tiếng Việt cho sinh viên ở bậc đại học, cao đẳng ngành Sư phạm không chỉ là truyền thụ cho họ những kiến thức lí thuyết ngôn ngữ về tiếng Việt mà còn phải hướng SV tới việc tiếp nhận các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ để tìm ra được lí thuyết đó. Giáo viên, sinh viên không phải là các nhà nghiên cứu, không nhất thiết phải đi lại toàn bộ con đường mà nhà nghiên cứu đã đi, nhưng trên những bước đi cơ bản thì không thể khác được ... Học tập với nghĩa tích cực nhất là "phát hiện lại" (chữ của Piaget). Thực hiện được điều này thì việc học không phải là áp đặt đối với sinh viên.
Để giúp SV lĩnh hội kiến thức ngôn ngữ học về tiếng Việt dưới góc độ của một "nhà nghiên cứu", giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy " Phân tích - nghiên cứu ngôn ngữ". Đặc trưng cơ bản của phương pháp này là: theo sự chỉ dẫn của giáo viên, dựa trên những ngữ liệu đã cho, SV quan sát và phát hiện những hiện tượng ngôn ngữ, tìm ra những đặc trưng chung của chúng, từ đó hình thành nên khái niệm và quy tắc mới. Trong phương pháp này, để thực hiện một hành động phân tích, SV phải sử dụng những thao tác cơ bản như : phân tích - phát hiện, phân tích - chứng minh, phân tích - phán đoán, phân tích - tổng hợp.
Ưu điểm của phương pháp này là ở chỗ :
Phương pháp dạy "phân tích - nghiên cứu ngôn ngữ" có mối quan hệ chặt chẽ với kiểu dạy học Nêu vấn đề. Dưới sự tổ chức, điều khiển khéo léo của giáo viên, SV luôn được đặt trước những tình huống có vấn đề cần phải giải quyết. Chính điều này đã giúp SV không những phát huy được cao độ tính tích cực, chủ động vươn lên tự tìm hiểu, tự nghiên cứu để nắm bắt tri thức, mà còn giúp họ nâng cao được năng lực tư duy sáng tạo.
- Ngoài ra, phương pháp này rất phù hợp cho việc khuyến khích SV hình thành các khái niệm trừu tượng.
Qua một số năm đảm nhiệm giảng dạy học phần Tiếng Việt cho các lớp cao đẳng, đại học ngành Giáo dục Tiểu học, bản thân tôi nhận thấy việc sử dụng phương pháp dạy “phân tích- nghiên cứu ngôn ngữ”, đặt SV dưới góc độ của "nhà nghiên cứu" ngôn ngữ để nắm bắt kiến thức ngôn ngữ học về tiếng Việt là một phương pháp tối ưu. Phương pháp này không những phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc nắm bắt tri thức cho SV mà còn có khả năng khuyến khích SVhình thành các khái niệm trừu tượng.
VD : Khi dạy bài "Tính đa nghĩa của từ - Cấu trúc nghĩa của từ đa nghĩa".
+ Giáo viên đưa ra các ngữ liệu có chứa từ "miệng", như: “ Cô bé có cái miệng rất xinh”; “Nhà có năm miệng ăn”; “Cô ấy là người lắm miệng”; “Kiến bò xung quanh miệng chén”; …
+ Yêu cầu SV phân tích nghĩa của từ "miệng" trong từng ngữ cảnh mà nó xuất hiện.
+ Để tìm ra bản chất của từ đa nghĩa qua từ “miệng”, GV có thể lấy thêm một vài hiện tượng về từ đồng âm để cho SV đối chiếu, so sánh bản chất nghĩa của từ đa nghĩa với bản chất nghĩa của từ đồng âm.
+ Bước tiếp theo khuyến khích SV hình thành khái niệm về từ đa nghĩa .
2. Hướng dẫn cho sinh viên thu thập nguồn tài liệu học tập và phương pháp đọc đối với từng loại sách cụ thể theo đặc trưng bộ môn
Đối với phân môn Tiếng Việt, trong buổi đầu lên lớp, giáo viên có thể hướng dẫn sinh viên phương pháp đọc đối với từng loại sách như sau :
2.1. Đọc sách tham khảo thuộc chuyên ngành Ngôn ngữ học về Tiếng Việt
Ngoài cuốn giáo trình chính thống, GV cần giới thiệu cho SV nhiều đầu sách tham khảo để các em đọc và nghiên cứu thêm. Đồng thời giáo viên nên hướng dẫn SV cách đọc: khi đọc các sách tham khảo cần phải có sự so sánh, phân tích, nhận xét, đánh giá cách giải quyết vấn đề của các tác giả, từ đó lựa chọn cho mình một quan điểm mà mình cho là hợp lí, và khi đọc cần phải tiến hành ghi chép, đặc biệt là ghi lại những điều bản thân còn băn khoăn, chưa hiểu để có thể đưa ra trao đổi với giáo viên, với bạn bè trong các giờ lên lớp, hoặc ở các buổi xêmina. Và GV cũng cần nói rõ cho SV biết: khi đọc sách tham khảo Ngôn ngữ học về Tiếng Việt thì hiện tượng cùng một đơn vị, cùng một cấu trúc ngôn ngữ, ... nhưng giữa các tác giả lại dùng những tên gọi, những cách hiểu, cách lí giải khác nhau là một hiện tượng mang tính phổ biến. Đồng thời lí giải cho SV biết sở dĩ có hiện tượng đó là vì: trong quá trình nghiên cứu các hiện tượng ngôn ngữ cụ thể, các nhà nghiên cứu cũng có lúc băn khoăn, lúng túng trước những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ gây ra. Và đối với những hiện tượng trung gian này, việc xếp nó vào một loại nào cũng đều nảy sinh một chút mâu thuẫn. Về điều này, nhà ngôn ngữ học Đỗ Hữu Châu đã thừa nhận: "Sẽ không phải là quá đáng nếu chúng ta nói rằng hễ người nghiên cứu vừa tách ra được một mặt đối lập mới trong ngôn ngữ thì lập tức những trường hợp không rành mạch sẽ xuất hiện cản trở chính ngay sự phân tách đó". Chính vì thế việc xử lí các hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ là phụ thuộc góc nhìn và cách lí giải của từng nhà nghiên cứu. Nếu hiểu được điều này, SV sẽ có cách hiểu biện chứng hơn trong việc thu nhận tri thức qua sách tham khảo.
Phương pháp đọc sách này không chỉ có tác dụng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức của sinh viên, mà còn góp phần rèn luyện cho họ kĩ năng tổng thuật các tài liệu khoa học trên cơ sở có phân tích, đánh giá - đây là một trong những kĩ năng cần phải có, cần phải trang bị cho sinh viên để họ có thể tập dượt làm công tác nghiên cứu khoa học.
2.2. Đọc giáo trình Tiếng Việt
Khi lên lớp, phần lớn giáo viên đều yêu cầu SV đọc trước bài mới trong giáo trình. Song, thực tế cho thấy rằng có SV đọc, nhưng cũng có SV không đọc. Và một số SV đọc xong lại không khái quát được vấn đề cần học, không nắm được đâu là vấn đề cơ bản, đâu là vấn đề trọng tâm của bài học. Để khắc phục điều này, giáo viên cần phải hướng dẫn SV cách đọc giáo trình, và cần phải có cách để kiểm tra việc đọc của SV.
2.2.1. Do cấu trúc của giáo trình Tiếng Việt dành cho SV ngành Giáo dục Tiểu học hệ đại học, cao đẳng thường đi từ tổng luận đến các nội dung cụ thể, đòi hỏi SV phải có năng lực tư duy khái quát, định hướng cao mới có thể tiếp nhận được nội dung kiến thức mà giáo trình đề cập, thiếu năng lực định hướng sẽ rơi vào tình trạng "thấy cây mà không thấy rừng". Để rèn luyện năng lực tư duy khái quát, năng lực định hướng cho SV qua việc đọc giáo trình, GV có thể định hướng việc đọc của SV bằng hệ thống các câu hỏi. Song hệ thống câu hỏi đưa ra phải hướng tới rèn luyện năng lực khái quát, năng lực phân tích nắm bắt một vấn đề cụ thể, và đặc biệt là phải tạo ra được những câu hỏi hướng SV vào việc vận dụng những tri thức đã có, đã được học như là một công cụ để tiếp thu tri thức mới, giải quyết vấn đề mới.
2.2.2. Trước khi bước vào bài mới, giáo viên cần phải kiểm tra việc đọc trước bài học trong giáo trình của sinh viên bằng cách yêu cầu SV hệ thống hóa kiến thức đọc được bằng mô hình Graph (bằng sơ đồ). Graph (G) là một tập hợp hữu hạn của các yếu tố và các mối quan hệ. Trong G yếu tố được thể hiện thành các đỉnh, mối quan hệ giữa các yếu tố được thể hiện thành các đoạn nối các đỉnh trong G. Vì vậy để lập được G cho đối tượng nghiên cứu, điều kiện cần có đối với đối tượng là tính hệ thống. Với điều kiện này, có thể khẳng định rằng ngôn ngữ đáp ứng được mọi điều kiện của việc lập G. Ngôn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng là một hệ thống lớn bao hàm trong lòng nó nhiều hệ thống nhỏ có tính cấp bậc, tầng bậc. Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy gần như hầu hết các nội dung ngôn ngữ học về tiếng Việt đều có thể lập được bằng mô hình G. Việc tái hiện kiến thức ngôn ngữ học về tiếng Việt bằng mô hình G có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện năng lực khái quát hóa vấn đề của SV. Đồng thời qua mô hình G, SV nắm được tương đối dễ dàng những đơn vị ngôn ngữ cụ thể và nhận ra được mối quan hệ giữa các đơn vị đó .
Đồng thời, việc yêu cầu SV hệ thống hóa kiến thức đọc được bằng mô hình G rất tiện cho GV kiểm tra việc đọc giáo trình của SV, đồng thời việc kiểm tra này cũng không mất nhiều thời gian. Trước khi đi vào bài học, hoặc đi vào từng nội dung cụ thể, GV yêu cầu SV lên trình bày nội dung đó bằng mô hình G, sau đó mới hướng dẫn, tổ chức cho SV đi sâu phân tích từng vấn đề cụ thể :
VD : Yêu cầu SV trình bày về các phương thức ngữ pháp tiếng Việt bằng mô hình G
2.3. Đọc SGK Tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5
- Để SV tham gia một cách tích cực vào việc đọc và nghiên cứu SGK Tiếng Việt ở bậc tiểu học, GV phải cho SV thấy được tác dụng và ý nghĩa của hoạt động này :
+ Việc đọc và nghiên cứu SGK Tiếng Việt từ lớp 1 - lớp 5 trở thành một yêu cầu bắt buộc đối với sinh viên ngành Sư phạm Tiểu học. Bởi vì, sau khi ra trường, họ là người trực tiếp dạy Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Vì vậy, việc nắm bắt được nội dung chương trình Tiếng Việt được đưa vào giảng dạy ở bậc tiểu học sẽ giúp SV chủ động hơn trong kế hoạch học tập và rèn luyện. Đồng thời tạo ra sự hứng thú cho SV bước đầu hướng nghiệp .
+ Giúp SV có kế hoạch bổ sung những kiến thức mới của Việt ngữ học đã được đưa vào chương trình Tiểu học, nhưng lại chưa được đưa vào chương trình Đại học và Cao đẳng. Việc tiến hành đổi mới, cải cách nội dung chương trình ở phổ thông thường đi trước một bước so với ở bậc ĐH, CĐ không phải là không từng xảy ra đối với ngành Giáo dục.