foto1 foto2 foto3 foto4 foto5


+84 0393.885.127
khoasp@htu.edu.vn

Khoa Sư phạm

Trường Đại học Hà Tĩnh

Nguyễn Huy Tưởng và truyện viết cho thiếu nhi

Hoàng Khánh Linh  - K16 GDTH

(GVHD: ThS. Hoàng Thị Tố Nga)

1. Đặt vấn đề

Trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đã không ít những tác giả, nhà phê bình văn học có những lời ngợi ca chân thành về Nguyễn Huy Tưởng, đặc biệt là ở mảng truyện viết cho thiếu nhi. “Trong văn học cho thiếu nhi của ta, kể chuyện lịch sử và cổ tích, cho đến bây giờ, chưa ai chuyên và đã thành công như Nguyễn Huy Tưởng”. Đây là những ghi nhận của nhà văn Tô Hoài khi đánh giá về thể loại truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng – người nghệ sĩ của lịch sử và thiếu nhi.

2. Giải quyết vấn đề

Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình Nho giáo, cha mất sớm, ông chịu sự giáo dục, nuôi dưỡng từ người mẹ đôn hậu, nhân từ, cởi mở và chính sự rèn giũa và nền tảng đạo đức ấy đã ảnh hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách trong ông. Cùng với đó, một phần tư cuộc đời ông cũng như cả thanh xuân tuổi trẻ của Nguyễn Huy Tưởng đã chứng kiến biết bao những biến động lớn của lịch sử dân tộc. Từ cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 – 1931), phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 – 1939) đến những cuộc khởi nghĩa và hoạt động cách mạng trước 1945. Ngay từ những năm tháng tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, Nguyễn Huy Tưởng sớm đến với chủ nghĩa yêu nước, tham gia nhiều hoạt động xã hội, cách mạng như: hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng (1930), tham gia Hội Truyền bá Quốc Ngữ và phong trào hướng đạo sinh ở Hải Phòng (1938) – đây là những hoạt động góp phần nâng cao dân trí cho nhân dân. Với tinh thần yêu nước sâu sắc, hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng trở thành một tấm gương đáng ngưỡng mộ, ông liên tiếp đạt những vị trí chủ chốt như: Tổng thư ký Ban Trung ương Vận động đời sống mới, người lãnh đạo chủ chốt của Hội văn hóa cứu quốc, đại biểu Quốc hội khóa I năm 1946. Tiếp tục hoạt động văn hóa, ông là ủy viên Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam, thư ký toà soạn Tạp chí Văn nghệ. Sau hòa bình 1954, ông làm Ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa I và là người sáng lập và là giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng.

Nhìn lại hành trình cách mạng đầy tự hào của Nguyễn Huy Tưởng, ta mới thấy, ông đã sống một cuộc đời đầy trọn vẹn cho dân tộc, cho tổ quốc. Chính hành trình đó cùng với những biến động đầy thách thức nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc đã tạo nên một Nguyễn Huy Tưởng – một nhân cách với lý tưởng cao đẹp. Để từ đó, ông đã viết nên những tác phẩm truyện thiếu nhi bằng cả trái tim, gửi gắm trong đó những giá trị nhân văn sâu sắc góp phần nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ.

Có thể nói, ông đến với sự nghiệp văn chương khá muộn. Tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng – cũng như tác phẩm mở đầu cho quá trình sáng tác văn chương của ông là tiểu thuyết Đêm hội Long Trì (1942). Mặc dù, cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam khép lại trang đời quá sớm, sự nghiệp cầm bút còn dang dở, chỉ vỏn vẹn 18 năm nhưng ông đã để lại một gia tài văn chương phong phú với đa dạng các thể loại cho nền văn học nước nhà. Có thể nói, Nguyễn Huy Tưởng sống “một cuộc đời ngắn” nhưng con đường nghệ thuật của ông lại rất dài. Ông là tác giả của những tiểu thuyết lịch sử như: An Tư công chúa (1944), Truyện Anh lục (1955), Bốn năm sau (1959), Sống mãi với thủ đô (1960), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960),...Cùng với các tác phẩm kịch lớn như: Vũ Như Tô (1941), Cột đồng Mã Viện (1944), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), Anh Sơ đầu quân (1949). Mặc dù, số lượng các tác phẩm kịch không nhiều nhưng hầu hết đều là những tác phẩm được công diễn, để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả. Và có thể nói, vở kịch đầu tiên – “Vũ Như Tô” là vở kịch tiêu biểu nhất, đỉnh cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Nó chính là bước ngoặt nâng cao vị trí của ông trên văn đàn Việt Nam.

Bên cạnh sự thành công to lớn về thể loại kịch, tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng còn được ghi nhận là một trong những người sáng lập nền văn học cho thiếu nhi dưới chế độ mới. Ông không những là giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng mà còn là cha đẻ của những tác phẩm truyện viết cho thiếu nhi đặc sắc, nổi tiếng như: Tìm mẹ (1950), Kể chuyện Quang Trung (1957), An Dương Vương xây thành ốc (1960)...Mặc dù, mảng sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng không nhiều, nhưng đa dạng đề tài, được triển khai trên nhiều bình diện và đặc biệt chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Điều này một lần nữa được Tô Hoài khẳng định trong lời nhận xét nêu ở mở bài: “Trong văn học cho thiếu nhi của ta, kể chuyện lịch sử và cổ tích, chưa ai chuyên và đã thành công như Nguyễn Huy Tưởng”. Dựa vào nội dung có thể chia truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn thành 3 loại lớn: truyện lịch sử (An Dương Vương xây thành Ốc, Chiếc bánh chưng, Kể chuyện Quang Trung, Lá cờ thêu sáu chữ vàng); truyện cổ tích (Tìm mẹ, Con Cóc là cậu ông Giời, Cô bé gan dạ); truyện viết về gương người thật, việc thật (Chiến sĩ ca nô, Hai bàn tay chiến sĩ,...). Cho dù ở mảng đề tài nào, Nguyễn Huy Tưởng cũng để lại dư vị trong tâm hồn trẻ thơ một niềm say mê, thích thú đến kỳ lạ với những giá trị vượt thời gian.

Viết về đề tài những người thật việc thật, mỗi chi tiết nhỏ được Nguyễn Huy Tưởng khắc họa như một bộ phim đầy cảm xúc. Ông luôn mang trong mình một khát vọng “muốn viết lại cuộc trường kì kháng chiến chống Pháp như kiểu một pho truyện trường thiên cực kì hấp dẫn, một lần đã đọc qua, suốt đời không thể quên”. Chính khát khao ấy đã từng bước giúp Nguyễn Huy Tưởng viết nên những tấm gương người thật, việc thật trong kháng chiến. Với ngòi bút giàu xúc cảm, ông đã khắc họa những con người bình dị mà phi thường, để từ đó khơi gợi trong thiếu nhi niềm tự hào, sự cảm phục và tình yêu Tổ quốc. Tiêu biểu cho mảng sáng tác này là hai tác phẩm Chiến sĩ ca nôHai bàn tay chiến sĩ.

Trong Chiến sĩ ca nô, nhà văn từng bước kể lại câu chuyện về những người chiến sĩ làm nhiệm vụ chở quân, chở hàng, vượt qua bom đạn ác liệt của kẻ thù để giữ vững mạch máu giao thông nơi chiến trường. Tác phẩm không đi sâu vào những trang miêu tả hoành tráng mà tập trung khắc họa tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường và lòng trung thành với nhiệm vụ. Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên gần gũi mà anh hùng, khiến thiếu nhi thêm tin tưởng và khâm phục khôn xiết. Mỗi lần đọc lại Hai bàn tay chiến sĩ, người đọc khó có thể kìm được nước mắt khi chứng kiến tinh thần dũng cảm hy sinh quên mình vì độc lập dân tộc của một đảng viên với cái tên mộc mạc – Bẩm. Hình ảnh người chiến sĩ với đôi bàn tay chai sần, rớm máu nhưng vẫn cầm chắc súng, chèo chắc mái, làm tròn nhiệm vụ đã trở thành biểu tượng đẹp của tinh thần kháng chiến.

Có thể thấy, khi viết về những tấm gương người thật việc thật, Nguyễn Huy Tưởng đã làm nổi bật vẻ đẹp anh hùng trong sự bình dị đời thường. Nội dung các tác phẩm không chỉ ca ngợi tinh thần dũng cảm, kiên cường của chiến sĩ mà còn truyền cho thiếu nhi bài học về trách nhiệm, lòng yêu nước và niềm tin vào sức mạnh của con người Việt Nam. Nghệ thuật kể chuyện ngắn gọn, chân thực, giàu cảm xúc đã giúp những trang viết của ông dễ đi vào tâm hồn trẻ thơ.

Đến với đề tài truyện cổ tích dành cho thiếu nhi, ở mảng này, ông đã thổi một luồng sinh khí mới vào những câu chuyện tưởng chừng giản dị, nội dung giàu tính nhân văn, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, dễ đi vào tâm hồn trẻ thơ. Đọc các truyện Tìm mẹ, Con cóc là cậu ông Giời hay Cô bé gan dạ...thiếu nhi không chỉ được sống trong thế giới kỳ ảo của cổ tích mà còn nhận về những bài học sâu sắc về tình cảm, lòng can đảm và khát vọng công bằng.

Trong Tìm mẹ, nhà văn kể lại câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng. Nhân vật chính là một đứa bé đi khắp nơi tìm mẹ trong nỗi khao khát và tình yêu thương vô bờ. Nghệ thuật kể chuyện nhẹ nhàng, giàu cảm xúc, gần gũi với tâm hồn trẻ thơ đã làm cho thông điệp về tình mẫu tử trở nên dễ thấm, dễ nhớ. Với cốt truyện giản dị, ngôn ngữ trong sáng và giàu tính tạo hình, Nguyễn Huy Tưởng đã khắc họa thành công một hành trình đầy thử thách, gian khổ đi “tìm mẹ” của 2 nhân vật con (thằng Nhà và con Gạo). Tác giả đã khéo léo cho người đọc cảm nhận được sâu sắc niềm khao khát mãnh liệt được sống trong vòng tay yêu thương, che chở của người mẹ. Từ đó, đi đến khẳng định rằng: tình mẫu tử là thứ tình cảm thiêng liêng, vĩnh hằng, nó là nguồn sống và động lực sống của con người. Mặc dù, hành trình đi tìm mẹ có phần gian nản, khổ cực, nhưng nhân vật thằng Nhà và con Gạo đã không bỏ cuộc, vẫn kiên trì tìm kiếm mẹ - đó là hành trình của niềm tin và nghị lực vào cuộc sống. Không chỉ những thế, trong quá trình gian khổ đi tìm mẹ, Nguyễn Huy Tưởng cũng đã gửi gắm những giá trị về lòng yêu thương trắc ẩn, tương thân tương ái, giúp đỡ nhau giữa người với người. Điều này được thể hiện qua hình tượng nhân vật “ông lão Đá” và “người con gái đi kiếm củi”. Qua tác phẩm “Tìm mẹ” – một hành trình tìm mẹ đúng nghĩa, Nguyễn Huy Tưởng đã giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về bối cảnh đất nước ta lúc bấy giờ. Đứa trẻ tìm mẹ không chỉ đại diện cho một cá nhân mà còn là một dân tộc khao khát sự hòa bình và tự do. Đến với Con cóc là cậu ông Giời, Nguyễn Huy Tưởng dựa trên một truyện dân gian quen thuộc nhưng đã viết lại bằng giọng văn trong sáng, dí dỏm, giàu sức gợi. Nhân vật cóc vốn nhỏ bé, xấu xí nhưng nhờ dũng cảm, kiên trì mà trở thành biểu tượng của sức mạnh. Nội dung tác phẩm đề cao tinh thần đấu tranh để giành sự công bằng, đồng thời gieo vào tâm hồn thiếu nhi niềm tin rằng dù nhỏ bé, yếu ớt, nếu có ý chí thì vẫn có thể làm nên việc lớn. Nghệ thuật kể chuyện của ông giữ được sự hóm hỉnh, kịch tính, khiến cho câu chuyện quen thuộc trở nên gần gũi, hấp dẫn hơn với bạn đọc nhỏ tuổi. Còn Cô bé gan dạ lại mở ra một thế giới cổ tích mang màu sắc hiện đại, nơi nhân vật trung tâm là một em bé nhỏ nhưng dũng cảm, dám vượt qua khó khăn, nguy hiểm để bảo vệ điều đúng. Câu chuyện không chỉ ca ngợi lòng can đảm mà còn khích lệ thiếu nhi biết sống trung thực, ngay thẳng, dám chống lại cái xấu. học theo.

Có thể nói, bằng ngòi bút tài năng của Nguyễn Huy Tưởng, ông thực sự đã làm cho thế giới cổ tích trong tâm hồn trẻ thơ lung linh và kì ảo hơn bao giờ hết. Với nội dung luôn đề cao tình cảm gia đình, sự dũng cảm, ý chí và lòng nhân ái cùng với nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, giàu sức gợi hình tượng nhờ đó mà các tác phẩm của ông không chỉ mang lại niềm vui đọc sách mà còn nuôi dưỡng trong tâm hồn trẻ thơ những giá trị bền vững, góp phần hình thành và giáo dục nên những nhân cách cao đẹp.

Đến với những trang văn viết về lịch sử hào hùng của dân tộc, Nguyễn Huy Tưởng không ghi chép một cách khô khan về các sự kiện lịch sử mà từ những chi tiết có thật, ông đã thổi vào những tác phẩm của mình những cảm xúc, trí tưởng tượng bay bổng nhưng phù hợp với tâm lý và suy nghĩ trẻ thơ, để từ đó gợi mở cho các em nhiều điều thú vị. Khi viết cho thiếu nhi, ông chọn cách kể giản dị, gần gũi, giàu kịch tính, khéo léo gieo vào tâm hồn trẻ em niềm say mê lịch sử, tình yêu đất nước và lý tưởng sống cao đẹp. Ba tác phẩm tiêu biểu An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang TrungLá cờ thêu sáu chữ vàng là minh chứng rõ nét cho tài năng và tấm lòng ấy.

Trong An Dương Vương xây thành Ốc, Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện lại truyền thuyết về quá trình dựng thành của vua An Dương Vương. Qua hình tượng kì ảo của Rùa Vàng và những gian nan khi đắp thành, tác phẩm vừa giữ được màu sắc huyền thoại, vừa gửi gắm bài học sâu sắc về cảnh giác trong giữ nước. Câu chuyện tuy cốt truyện giản dị nhưng gợi mở cho thiếu nhi niềm tò mò, trí tưởng tượng và đặc biệt là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc. Đến với Kể chuyện Quang Trung, nhà văn tái hiện lại hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ với tất cả sự mạnh mẽ, trí tuệ và quyết đoán. Bằng lối kể dồn dập, hào hùng, ngôn từ giàu kịch tính khiến từng chiến công của Quang Trung như được sống lại, sôi sục và rực lửa hơn bao giờ hết. Đây không chỉ là câu chuyện về một vị vua kiệt xuất mà còn là bản hùng ca về tinh thần bất khuất, niềm tin vào sức mạnh dân tộc, khơi gợi trong thiếu nhi niềm tự hào và ý thức trách nhiệm với Tổ quốc. Đặc biệt, Lá cờ thêu sáu chữ vàng đã đem đến cho độc giả nhỏ tuổi một hình tượng gần gũi, bởi nhân vật trung tâm là Trần Quốc Toản – một thiếu niên mới mười lăm, mười sáu tuổi. Nỗi uất ức khi không được dự bàn việc nước đã biến thành sức mạnh thôi thúc cậu bé lập nên chiến công hiển hách. Hình ảnh Quốc Toản bóp nát quả cam trong tay và tung lá cờ đề sáu chữ “Phá cường địch, báo hoàng ân” ra trận đã trở thành biểu tượng bất diệt của chí khí tuổi trẻ. Với cốt truyện chặt chẽ, các chi tiết đặc sắc, tác giả đã khắc họa một cách chân thực các sự kiện, con người, dân tộc. Đặc biệt, hình ảnh một Hoài Văn Hầu vốn rất ít tư liệu lịch sử nói đến nhưng lại được tái hiện một cách chân thực và rõ ràng. Qua đó, tác phẩm không chỉ khích lệ thiếu nhi nuôi dưỡng ước mơ lớn mà còn dạy các em biết sống có trách nhiệm với đất nước từ khi còn nhỏ.

Với đề tài lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng “muốn viết những cái gì của dân tộc, cho dân tộc, để muôn đời sau còn nhớ” – chính khát khao mãnh liệt đó, nhà văn tài hoa thực sự đã thành công trong việc thắp sáng ở tâm hồn thiếu nhi tình yêu quê hương, niềm tự hào về truyền thống dân tộc. Có thể thấy, “Nếu không có Nguyễn Huy Tưởng thì văn học hiện đại Việt Nam, nhất là ở mảng lịch sử - truyền thống, sẽ vơi đi sự bề thế, vẻ kỳ vĩ, tráng lệ và chất bi thương hào hùng”. Và cái hay ở đề tài này, chính là Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo kết hợp lịch sử với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tạo nên những trang văn vừa giàu giá trị giáo dục vừa lôi cuốn bạn đọc nhỏ tuổi. Bởi vậy, những sáng tác lịch sử dành cho thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng mãi là tài sản quý giá của văn học Việt Nam, là những bài học sống động, trong trẻo và bền vững cùng năm tháng.

Nhìn lại những trang văn của Nguyễn Huy Tưởng, ta mới thấy rất nhiều những tác phẩm của ông là truyện cổ viết lại, trong đó có: Con cóc là cậu ông giời – tiếp nối chủ đề thần thoại; An Dương Vương xây thành Ốc – tiếp nối chủ đề truyền thuyết; Tìm mẹ - tiếp nối chủ đề của truyện cổ tích... Sở dĩ nhiều tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng là truyện cổ viết lại bởi ông luôn khao khát đem lịch sử và truyền thống dân tộc đến gần với thiếu nhi. Truyện cổ tích, truyền thuyết vốn quen thuộc, dễ đi vào tâm hồn trẻ em, nhưng nếu giữ nguyên lời kể dân gian thì có phần rời rạc, khó tạo sự hấp dẫn. Nguyễn Huy Tưởng đã chọn cách viết lại, bằng ngòi bút hiện đại, giản dị, giàu hình tượng để câu chuyện trở nên mạch lạc, sinh động và gần gũi hơn. Qua đó, ông vừa giữ được cốt lõi tinh hoa của văn học dân gian, vừa thổi vào đó tinh thần mới, làm cho các nhân vật và sự kiện trở thành những bài học cụ thể, dễ tiếp nhận. Chính nhờ vậy, các truyện cổ viết lại của ông không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, giúp thiếu nhi thêm yêu lịch sử, yêu quê hương và nuôi dưỡng khát vọng sống tốt đẹp. Cái đặc sắc ở Nguyễn Huy Tưởng là ông không hoàn toàn bê nguyên xi những câu chuyện ông viết lại, mà kế thừa và sáng tạo để đem đến sức sống mới cho những câu chuyện quen thuộc. Ông kế thừa cốt truyện, nhân vật, chi tiết mang màu sắc kỳ ảo từ kho tàng truyền thuyết, cổ tích dân tộc, nhưng đồng thời sáng tạo trong cách kể chuyện hiện đại, trong sáng, mạch lạc và giàu cảm xúc. Ở Con cóc là cậu ông Giời, ông giữ nguyên cốt lõi truyện dân gian nhưng thêm thắt chi tiết miêu tả sinh động, làm nổi bật tinh thần dũng cảm, kiên trì của nhân vật. Với Lá cờ thêu sáu chữ vàng, từ sự kiện lịch sử có thật, nhà văn đã hư cấu thêm những chi tiết giàu kịch tính như hình ảnh Trần Quốc Toản bóp nát quả cam, qua đó khắc sâu chí khí và khát vọng tuổi trẻ. Nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kế thừa và sáng tạo ấy, tác phẩm của ông vừa bảo tồn giá trị truyền thống vừa mở ra cách tiếp nhận mới mẻ, hấp dẫn đối với thiếu nhi.

3. Kết luận

Đọc những trang văn đầy tâm huyết mà Nguyễn Huy Tưởng dành tặng cho thiếu nhi, ta mới thấy ông thực sự là một cây bút xuất sắc, tài hoa của nền văn học Việt Nam. Những giá trị tốt đẹp trong các đề tài truyện viết cho thiếu nhi của Nguyễn Huy tưởng đều xuất phát từ một trái tim với nhân cách cao đẹp, để từ đó nhà văn gửi gắm biết bao những bài học đạo đức sâu sắc cho các em thiếu nhi nói riêng và cả thế hệ con người nói chung. Đặc biệt, khi người đọc bước vào thế giới truyện thiếu nhi của Nguyễn Huy Tưởng, việc lựa chọn chủ đề truyền thống về đề tài cổ tích và lịch sử, ông luôn mong muốn đưa tâm hồn non trẻ của các em thiếu nhi đạt tới những đỉnh cao đẹp trong tư tưởng, tình cảm. “Vì vậy mà trên những trang sách huyền ảo của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, các em gặp vô vàn trường hợp éo le trần đời mà trong ấy lồng lộng những tình cảm cao quí, những người có chí, có gan, dám nghĩ dám làm, đầy nghị lực, đầy tinh thần cách mạng, vừa anh hùng vừa bặt thiệp và cao thượng, lúc nào cũng tin tưởng và yêu đời”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Nguời còn là nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước. Sự nghiệp văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký, tiểu phẩm, bút chiến, nghị luận chính trị, lời kêu gọi, thư từ, thơ ca, kịch bản sân khấu, phê bình nghệ thuật… Trong các tác phẩm ấy, có bài viết về tiếng khóc của một cháu bé trong nhà lao Tân Dương (Nhật Kí trong tù), đặc biệt bài ca về lứa tuổi (Trẻ chăn trâu). Thời kháng chiến chống Pháp, người có thơ “Khen tặng hai cháu liên lạc trong bộ đội chiến khu II”, Tặng cháu và thường có thơ và thư gửi các em thiếu niên trong cả nước nhân dịp tết Trung thu hoặc ngày Thiếu nhi Quốc tế 1/6.

C Nga 25 10 1

           Bên cạnh các tác phẩm viết trực tiếp về thiếu nhi, nhiều tác phẩm của người đã trở thành các sáng tác được tuổi nhỏ yêu thích như: nhiều truyện và kí của Nguyễn Ái Quốc (Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu…), nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù (Ngắm trăng, không ngủ được, Nhớ bạn, Hoàng hôn…), nhiều bài thơ Bác viết sau ngày về nước (Hòn đá, Con cáo và tổ ong, Cảnh khuya, Nguyên tiêu, Nhớ chiến sĩ, Đối trăng…). Cả hai loại tác phẩm trên hợp thành bộ phận văn học thiếu nhi trong sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  1. Các sáng tác về thiếu nhi của Người luôn thể hiện tình thương yêu bao la rộng lớn đối với các cháu. Đó là sự trân trọng đối với tuổi nhỏ.

Trẻ em như búp trên cành

Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.

C Nga 25 10 2

          Đó là sự cảm thương uất hận khi Bác nói đến thân phận nô lệ, khổ đau của các em nhỏ sống trong chế độ thực dân phong kiến. Giọng văn của Người đã rung lên đau đớn khi nói đến cảnh “em bé bị lột trần truồng”, “những em bé mồ côi” vì bố mẹ bị bọn thực dân Pháp đàn áp, giết hại trong Bản án chế độ thực dân Pháp. Tiếng thơ của người dường như cũng nức nở theo tiếng khóc của một em bé Trung Quốc trong nhà lao Tân Dương:

Oa…! oa…!...oa…!

Cha trốn không đi lính nước nhà

Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi

Phải theo mẹ đến ở nhà pha.

          Người xót xa nói đến những nỗi cơ cực của trẻ em trong cảnh “Vận nước gian nan”:

- Học hành giáo dục đã không

Nhà nghèo lại phải làm công, cày bừa

- Có khi lìa mẹ, lìa cha

Để làm tôi tớ người ta bên ngoài.

          Trong nỗi đau sâu thẳm tâm hồn Hồ Chí Minh vì cảnh nước mất có nỗi đau trước cảnh tuổi nhỏ bị đoạ đày đau đớn.

 Tình thương của Bác dành cho các em giống như tình thương của một người ông đối với đàn cháu nhỏ. Từ sau ngày nước nhà được độc lập, Bác Hồ luôn dành cho các cháu một sự ưu ái đặc biệt. Tết trung thu nào Bác cũng có thư và thơ gửi các cháu. Mỗi dòng, mỗi chữ trong đó đều thấm đượm tình thuơng yêu vô bờ bến:

  Ai yêu các cháu nhi đồng

Bằng Bác Hồ Chí Minh.

          Vì thế, năm nào cũng vậy:

Trung thu trăng sáng như gương

Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng

Sau đây bác viết mấy dòng

Gửi cho các cháu tỏ lòng nhớ nhung.

          Đó là những dòng tâm sự của một người ruột thịt đối với những người ruột thịt, không hề có khoảng cách giữa những người đứng đầu nhà nước với những công dân bé nhỏ nữa.

          Trung thu năm 1945, Bác viết:

          “Trăng trung thu trong đẹp, sáng rội khắp nơi từ Nam đến Bắc. Cũng như lòng Bác yêu quý tất cả các cháu miền Bắc và miền Nam (…) lần này Bác bận việc quá, không rảnh làm thơ gửi cho các cháu, Bác chỉ chúc cho các cháu vui vẻ, mạnh khỏe, ngoan ngoãn và cố gắng thi đua học hành…

Đến ngày Nam Bắc một nhà

Các cháu sum họp thì ta vui lòng”.

          Bác Hồ đã cùng với Nhà nước ta tạo mọi điều kiện chăm sóc tuổi thơ, coi các cháu “là bầy con cưng” của từng gia đình, từng địa phuơng và toàn đất nước. Đáp lại, các cháu thiếu niên nhi đồng lại hát vang:

Ai yêu Bác Hồ Chí Minh

Hơn chúng em nhi đồng?

          Các cháu thiếu nhi đã không phụ lòng Bác, cố gắng phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, trong bài thơ Cháu thề phấn đấu suốt đời Trần đăng khoa đã viết:

Bác cho chúng cháu mai sau

Núi sông bất khuất mạnh giàu thắm tươi,

Cháu thề phấn đấu suốt đời

Như lời Bác dạy, nên người Bác mong.

2. Yêu thương quí mến các em nhưng Bác cũng trân trọng tuổi nhỏ. Bác luôn bày tỏ sự tin tưởng của người đối với các em. Người khơi dậy những khả năng dù nhỏ bé của các em, đánh giá cao những đóng góp dù còn ít ỏi của các cháu. Bác luôn dặn dò, dạy bảo các cháu bằng những lời đúc kết ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc;

Mong các cháu cố gắng

Thi đua học và hành

Tuổi nhỏ làm việc nhỏ

Tuỳ theo sức của mình

          Bác dùng thơ văn như một phương tiện tuyên truyền giáo dục, động viên các em. Năm 1941, Bác viết hai bài thơ “Kêu gọi thiếu nhi” và “Trẻ chăn trâu” nhằm phân tích cho các em thấy nỗi nhục mất nước, giáo dục các em lòng yêu nước, căm thù giặc, kêu gọi các em tham gia Hội nhi đồng cứu quốc. Lúc này, thơ ca được Bác sử dụng như một thứ vũ khí tuyên truyền, vận động cách mạng, với lối viết giản dị, dễ hiểu Bác đã chỉ ra nguyên nhân nỗi khổ của trẻ em…; Bác kêu gọi các em đóng sức mình vào sự nghiệp cách mạng…; Người chỉ ra rằng chỉ có con đường gia nhập Hội nhi đồng cứu quốc mới là con đường đúng đắn nhất để các em lựa chọn…

          Năm 1945 Bác viết rất nhiều thư gửi cho các cháu, trong thư, Bác đặt các em vào địa vị của những chủ nhân xã hội mới, giúp các em hiểu rõ hơn quyền lợi, niềm tự hào của người dân một nước độc lập, tự do, đồng thời giúp các em ý thức rõ hơn vai trò, nhiệm vụ của mình trong hoàn cảnh mới. Ngày nay không trường học nào, không một học sinh chăm ngoan nào không khắc sâu lời nói của Bác “Non sông Việt Nam có được  vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu  được hay không, chính là nhờ một phần lớn công học tập của các cháu”. (Thư Bác Hồ gửi học sinh nhân ngày khai trường 1945).

C Nga 25 10 3

          Năm điều Bác Hồ dạy các cháu thiếu niên nhi đồng được các em thuộc và đọc vang trước mỗi buổi học, Năm điều Bác Hồ dạy đã tạo ra những phong trào thi đua sôi nổi rộng lớn, liên tục trong các thế hệ thiếu nhi với nhiều hình thức phong phú: Phong trào nghìn việc tốt, Kế hoạch nhỏ, Hợp tác xã măng non, Nuôi trâu bò khỏe, Vì Miền Nam ruột thịt… Bác còn viết thư, làm thơ động viên khuyến khích các em mỗi khi các em lập được chiến công hoặc truyền cho các em niềm tin vào tương lai của cuộc kháng chiến chống Pháp:

Khắp nơi Nam Bắc, Tây, Đông,

Đưa tin thắng trận, cờ hồng tung bay

Các cháu vui thay!

Bác cũng vui thay!

                   Thu Sau so với thu này vui hơn

                             (Thư Trung thu năm 1953)

           Ngoài những nội dung trên, những nội dung khác của thơ văn Bác như lòng thương người, tình yêu thiên nhiên, nghị lực và khí phách kiên cường, niềm lạc quan tin tưởng, ước mơ lãng mạn cách mạng, đều là những nội dung có ảnh  hưởng sâu sắc đến tuổi nhỏ.

3. Thơ, văn của Hồ Chí Minh viết cho thiếu nhi luôn thể hiện tinh thần lạc quan và phong thái bình dị

          Viết cho thiếu nhi bao giờ Người cũng thể hiện tinh thần lạc quan, hướng về một cuộc sống tốt đẹp. Ngòi bút của Người luôn đậm chất trữ tình, hai chữ thương yêu luôn xuất hiện trong từng bài thơ, bài văn. Đọc thơ Người ta bắt gặp phong thái của Người luôn luôn nắm bắt được quy luật của cuộc sống, của thời cuộc, luôn làm chủ mọi tình thế.

Vì cũng nằm trong mạch thơ văn của Bác, các sáng tác về thiếu nhi và cho thiếu nhi cũng mang những đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Người.

Đó là lối viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị phù hợp với cách suy nghĩ, cảm nhận của các cháu. Lối viết ấy là biểu hiện cụ thể của những xúc động chân thành, của những tình cảm yêu thương sâu sắc. Cùng với sự trong sáng, giản dị là sự sáng tạo linh hoạt, hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng các hình thức thể loại và ngôn ngữ. Trong những bức thư gửi các cháu viết bằng văn xuôi, Bác xen vào những câu văn vần, đoạn thơ. Bác thường sử dụng tư duy cụ thể, hình tượng để diễn đạt ý tưởng, giúp các cháu hiểu tốt hơn những điều Người muốn nói.

4. Kết luận

          Không chỉ là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, Người ông kính yêu của các cháu thiếu nhi, Bác Hồ còn là một trong những tác giả đầu tiên của nền văn học cách mạng quan tâm đến việc viết cho thiếu nhi và Bác đã dành thời gian, tình cảm thật sự cho công việc này. Văn thơ của Người viết cho các em không nhiều lắm, nhưng mỗi câu, mỗi bài đều toát lên sự lo lắng chăm sóc yêu thương của Bác đối với lứa tuổi măng non. Mỗi bài văn, bài thơ của Bác là một bài học dạy làm người. Những bài học ấy cùng với cuộc đời của Bác như trăng rằm muôn đời sáng mãi, mãi mãi là kim chỉ nam cho sự vươn lên của các thế hệ măng non Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Cao Đức Tiến (Chủ biên) - Dương Thị Hương, Giáo trình Văn học, NXBGD, NXB ĐHSP, năm 2007

[2]. Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Nguyễn An, Chu Huy, Hồ Chí Minh, Tác gia-Tác phẩm-Nghệ thuật ngôn từ, NXBGD, năm 2003

[3]. Thư trung thu (Cao Đức Tiến (Chủ biên) - Cánh diều, Tiếng việt lớp 2 tập 2 trang 118,119,120)

Khoa Sư phạm - Trường ĐH Hà Tĩnh đã tổ chức cho hơn 500 lượt  sinh viên năm cuối các ngành thi kết thúc học phần trực tuyến nhằm đảm bảo tiến độ tốt nghiệp.

Tình hình diễn biến dịch Covid-19  đang  khá phức tạp, từ đầu tháng 6 đến nay tại Hà Tĩnh đã có 84 ca bệnh mới. Thực hiện chính sách giãn cách xã hội, đảm bảo an toàn phòng chống dịch, trường Đại học Hà Tĩnh đã tiến hành chuyển toàn bộ hoạt động dạy và học từ trực tiếp sang trực tuyến. Trong đó, sinh viên năm cuối đang giữa đợt thi kết thúc các học phần cuối cùng của khóa đào tạo. Nhà trường đã hướng dẫn các Khoa chủ động tổ chức thi trực tuyến. Ban Chủ nhiệm Khoa Sư phạm đã họp trực tuyến lãnh đạo Khoa và các trợ lý đào tạo, giáo vụ và công tác sinh viên đi đến thống nhất thực hiện thi trực tuyến theo các hình thức: Thi viết trực tuyến, thi trắc nghiệm và thi vấn đáp.


Sau 2 tuần triên khai, đã có hơn 500 lượt sinh viên dự thi ở trên 15 học phần. Nhìn chung, cán bộ, giảng viên và sinh viên đều tiếp cận công nghệ nhanh chóng. Các buổi thi được tổ chức bài bản, khoa học, nghiêm túc, an toàn và hiệu quả.

TS. Lê Văn An cho biết: “Với kinh nghiệm đào tạo trực tuyến từ những đợt dịch Covid-19 trước; Khoa đã chủ động xây dựng phương án, thảo luận thống nhất với giảng viên và sinh viên để khi chuyển đổi hình thức thi không gây hoang mang và xáo trộn quá lớn. Khoa Sư phạm có số sinh viên sắp tốt nghiệp đông nhất Trường và đội ngũ giảng viên trẻ, năng động tiếp cận công nghệ tốt nên đảm bảo thi học phần trực tuyến thuận lợi. Chúng tôi tổ chức thi trực tuyến bài bản, đảm bảo 100% sinh viên cuối khoá ra trường đúng tiến độ.”

Năm ấy, nó đã thi trượt NV1 vào đại học. Nó phải chịu nhiều áp lực, cũng buồn lắm, và cũng đã khóc rất nhiều ... Rồi cũng có nhiều người khuyên nó ôn và thi lại vào năm sau. Nó dành gần cả tháng để quyết định có hay không? Bạn bè đã dần dần nhập học, làm nó càng khó chịu hơn nữa ... và cuối cùng nó quyết định đăng kí học NV2 ở một ngôi trường khác. Và kết quả hiện tại: Nó hài lòng, và có thể nói đó là một trong những quyết định chính xác và sáng suốt nhất trong cuộc đời của nó cho đến tận bây giờ.

Ngày 14 tháng 9 năm 2014, có một cô gái 18 tuổi cầm bộ hồ sơ xét tuyển đại học trên tay từ Nghệ An vào Hà Tĩnh và tìm đường đến trường Đại Học Hà Tĩnh để nhập học. Với nó, lúc đó cảm giác rất bình thường, không có một sự hào hứng vui vẻ cho lắm vì một phần phải xa nhà, một phần có chút buồn vì đây không phải là ngôi trường nó mong ước như ban đầu. Những ngày đầu cảm giác khá là chán nản, trống trải, lần đầu tiên ở một mình xa nhà đến vậy, từ mọi thứ xung quanh đến con người hoàn toàn xa lạ với nó ... Nhưng sau một thời gian, từ môi trường học tập, thầy cô, anh chị, những người bạn ở đây đã dần thay đổi những suy nghĩ ban đầu. Nó dần cảm thấy vui vẻ, hào hứng thay đổi rất nhiều khi được học tập tại đây – Trường Đại học Hà Tĩnh.

Cực sinh viên Nguyễn Thị Loan,  K7 SP Toán – nay là giáo viên Trường TH, THCS, THPT Ngô Thời Nhiệm cơ sở Bình Dương

Trường có đầy đủ phòng học, giảng đường, ký túc xá, sân bãi, phòng làm việc, các trang thiết bị cần thiết hỗ trợ dạy - học, nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu đào tạo các mã ngành. Nhưng điều làm nó thay đổi nhiều nhất chính là những thầy giáo, cô giáo ở đây và trực tiếp chính là những thầy cô khoa Sư phạm. Với 4 năm theo học ở trường, nó được học hầu như gần hết các thầy cô trong khoa, có người dạy một học phần, có người dạy đến ba, bốn, học phần trong suốt 4 năm. Mỗi người thầy, người cô ở đây đều có những ấn tượng, nhiều kỉ niệm khác nhau mà khó có thể kể hết được. Khi đó, lớp của nó không chỉ là những sinh viên ở trong tỉnh mà có rất nhiều tỉnh xa xôi khác theo học.

Tập thể sinh viên K7 Sư phạm Toán

Điều đặc biệt nhất, đó là năm đầu tiên có sinh viên của nước bạn Lào theo học ngành sư phạm Toán tại trường. Vì vậy, đây cũng là một khó khăn đối với việc học cũng như việc giảng dạy của thầy cô. Nhưng thầy cô lúc nào cũng tâm huyết với nghề, nhiệt tình dạy cho nó không chỉ những kiến thức chuyên môn, mà còn chỉ bảo những kinh nghiệm sống, làm hành trang bước vào nghề, vào đời. Chính sự nhiệt tình đó đã giúp nó cố gắng học tập, hoàn thành chương trình học và có thêm lòng yêu nghề hơn. Sự dạy dỗ tận tình, lòng nhiệt huyết, yêu nghề của thầy cô ở trường đã giúp cô gái năm ấy giờ đã thực hiện được ước mơ của mình, trở thành một giáo viên dạy Toán và luôn cố gắng học hỏi để phát triển chuyên môn cũng như nghiệp vụ của mình để trở thành một người giáo viên tốt.

GV Nguyễn Thị Loan tiếp nối sự nghiệp “trồng người” với các thế hệ học trò của mình tại môi trường mới

Là một cựu sinh viên đã từng học tại trường, nó luôn ghi nhớ công ơn các thầy cô, và thầm kính chúc các thầy cô luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và tiếp tục sự nghiệp với các thế hệ học trò, chúc cho Trường của chúng ta ngày càng phát triển.

 

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “Giáo dục Mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền tảng giáo dục tốt”. Trường Mầm non có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu, bồi dưỡng cho các cháu trở thành người công dân có ích. Muốn thực hiện được điều đó, trước hết người giáo viên phải có trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ để trang bị cho trẻ những kiến thức toàn diện về các môn học, phải nhận thức đúng về nhiệm vụ, mục đích- yêu cầu, nội dung của chương trình giáo dục mầm non mới.

Lời dạy của Bác đã thấm sâu vào tâm hồn của mỗi người dân Việt Nam chúng ta qua nhiều thế hệ. Bởi vậy sự nghiệp trồng người được Đảng và nhà nước ta quan tâm hàng đầu. Đặc biệt là bậc học Mầm non là nển tảng cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển một con người toàn diện. Vì thế trẻ em không chỉ là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi gia đình mà còn là tương lai của đất nước, của xã hội. Non sông Việt Nam có lớn mạnh hay không, xã hội Việt Nam có phồn vinh hay không điều đó phụ thuộc phần lớn vào sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục là nền tảng cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người mới trong xã hội mới. Hơn ai hết, bản thân tôi là một sinh viên, một người giáo viên Mầm non tương lai, tôi rất hiểu vai trò của mình trong sự nghiệp “trồng người”, tôi nguyện đem hết khả năng, năng lực và tâm huyết của mình để giáo dục trẻ và giúp trẻ phát triển hài hòa, cân đối về mọi mặt “Đức- Trí- Thể- Mỹ”.

Như chúng ta đã biết đối với trẻ em, việc hướng dẫn cho trẻ làm quen với toán học ngay từ lứa tuổi Mầm non là cơ hội tốt đểsớm hình thành ở trẻ những khả năng tìm tòi, quan sát, so sánh… tăng cường khả năng ngôn ngữ và tư duy logic.

Đối với trẻ Mầm non, môn làm quen với Toán là môn học rất quan trọng và cần thiết với trẻ và cũng là vốn kiến thức ban đầu để trẻ bước vào ngưỡng của mới của cuộc sống sau này của trẻ. Môn toán đã mang lại cho trẻ sự phát triển tư duy đồng thời thông qua môn toán trẻ có thể tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh mình, với môn toán trẻ trở nên tích cực nhanh nhẹn hơn trẻ biết đếm, phân biệt nhiều hơn, ít hơn trẻ biết tách gộp chia nhóm, ngoài ra trẻ có thể xác định được các hình khối. Như vậy trẻ đã được hình thành những nét sơ đẳng biểu tượng ban đầu của toán học. Đến với môn làm quen với toán trẻ trở nên tích cực, nhanh nhẹn hơn, trẻ biết đếm, phân biệt nhiều hơn, ít hơn, trẻ biết tách gộp, phân chia nhóm, ngoài ra trẻ có thể xác định được các hình khối, xác định không gian.

Ở độ tuổi 5-6 tuổi, thường chú trọng vào việc cho trẻ làm quen với các con số, phép đếm đặc biệt là do từ nhận thức mong muốn của phụ huynh mà những kiến thức khác của làm quen với toán bị xem nhẹ và ít được quan tâm nên trẻ nhận thức về vấn đề này chưa sâu nhất là vấn đề định hướng trong không gian nên một vài trẻ còn chậm khi xác định phương hướng.

Đối với trẻ 5-6 tuổi dạy trẻ định hướng trong không gian là rất gần gũi với thực tế xung quanh trẻ, có rất nhiều các đồ vật, con vật, hiện tượng khác nhau… có những đồ vật thì gần gũi với thực tế xung quanh trẻ, có những đồ vật thì phạm vi rộng hơn, tất cả đều được sắp xếp bố trí ở các hướng khác nhau đối với trẻ. Để giúp trẻ nắm vững các biểu tượng định hướng trong không gian là một nội dung quan trọng, vừa phù hợp với thực tiễn hiểu biết của trẻ vừa mang tính lâu dài trong việc hình thành kiến thức toán học sau này của trẻ qua đó giúp trẻ nắm bắt rõ hơn được những kiến thức về xác định phương hướng trong không gian đối với bản thân trẻ, đối với bạn khác và đối vơi các đồ vật, để từ đó trẻ áp dụng vào thực tiễn về trí tuệ và phát triển về nhân cách con người mới từ tuổi thơ.

Vì vậy là một giáo viên mầm non tương lai, khi được về thực tập tại trường mầm non Phúc Đồng, tôi nhận thấy rằng các giáo viên chưa thực sự quan tâm đến dạy trẻ định hướng không gian. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi đã quyết định thực hiện nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp hình thành sự định hướng trong không gian cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non Phúc đồng- Hương Khê- Hà Tĩnh”.

II. NỘI DUNG

2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Định hướng không gian là một trong những điều kiện cần thiết để hình thành sự nhận thức và phát triển nhân cách của trẻ. Các nhà giáo dục học Xô- viết, cũng như các nhà tâm lý học phương Tây cho rằng bất kì hoạt động nào của trẻ cũng cần đến kiến thức, kĩ năng định hướng trong không gian. Vì thế, trong mọi hình thức hoạt động của trẻ, sự định hướng trong không gian là điều kiện cần thiết thúc đẩy sự phát triển năng lực tư duy và năng lực sáng tạo cho trẻ. Nó không chỉ giúp trẻ thực hiện một cách chính xác các hoạt động phương hướng mà còn giải quyết một cách hiệu quả và sáng tạo các nhiệm vụ thực tiễn trong cuộc sống hàng ngày. Những hạn chế về khả năng định hướng trong không gian ở trẻ là một rào cản rất lớn gây ra những lỗi đặc trưng khi trẻ tham gia vào các hoạt động học tập cũng như các hoạt động vui chơi, lao động… Cho nên, dạy trẻ định hướng trong không gian là vô cùng quan trọng và cần thiết ở trường mầm non. Tuy nhiên, để có thể vạch ra những nội dung, phương pháp, biện pháp hình thức tổ chức sao cho phù hợp với đặc điểm phát triển nhận thức không gian của trẻ, thì các nhà giáo dục học cần phải xuất phát từ cơ chế tâm lý hình thành sự định hướng trong không gian của trẻ.

2.2. Đặc điểm phát triển biểu tượng về không gian và sự định hướng trong không gian của trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng

- Sự phát triển nhận thức của trẻ mầm non về các vùng không gian:

Tương ứng với ba trục khác nhau của cơ thể, không gian được chia thafnhc ác vùng: Phía trên- phía dưới ứng với trục thẳng đứng phía trước- phía sau ứng với trục chính diện, phía phải- phía trái ứng với trục nằm ngang. Bên cạnh đó, các vùng không gian không hề tồn tại riêng lẻ, rời rạc mà chúng tồn tại một cách trọn vẹn, thống nhất, và có sự giao thoa với nhau. Cụ thể, vùng bên phải được phân chia thành 2 vùng nhỏ phía trước bên phải và phía sau bên phải, vùng bên trái cũng gồm 2 vùng nhỏ phía trước bên trái và phía sau bên trái.

Ở trẻ 3 tuổi, không gian mà trẻ định hướng thường rất hẹp trẻ chỉ có thể thực hiện sự định hướng trên cơ sở tiếp xúc gần với đối tượng. Trong giai đoạn này vùng không gian đối với trẻ là các miền rời rạc, tách biệt nhau nên trẻ đánh giá rằng chỉ có những vật nằm trực tiếp hay vuông góc với các trục chính diện, trục thẳng đứng, trục nằm ngang của cơ thể trẻ mới là những vật nằm ở phía trước, phía sau hay phía trên của trẻ. Ngược lại, vật nằm ở các góc giữa hai hướng thì trẻ không thể xác định được. Ví dụ: Vật ở phía trước bên trái thì trẻ không xác định được vật đó ở phía trước hay phía phải.

Ở trẻ 5-6 tuổi, diện tích các vùng không gian àm trẻ tri giác tăng lên đáng kể. Trẻ nhận ra được tính thống nhất, tính liên tục cũng như sự chuyển tiếp giữa các vùng không gian đó. Nhờ vậy mà trẻ đã xác định được vị trí của vật đặt cách xa trẻ hay vật nằm ở các điểm trung gian giữa hai vùng.

- Sự phát triển nhận thức của trẻ mầm non về các mối quan hệ không gian

Hầu hết trẻ ở lứa tuổi mầm non thì phát triển nhận thức về các mối quan hệ không gian đều chậm hơn so với sự phát triển nhận thức các mối quan hệ khác trong toán học như quan hệ về số lượng, quan hệ về kích thước.

Trẻ nhỏ thường tri giác các vật xung quanh một cách riêng biệt, tách rời các mối quan hệ không gian tồn tại qua lại giữa chúng, đồng thời, trẻ chưa quen khi chuẩn không phải là bản thân trẻ vì thế trẻ gặp khó khăn khi xác định các hướng từ đối tượng khác.

Trẻ càng nhỏ, càng dựa trên sự tiếp xúc gần gũi giữa các vật để đánh giá mối quan hệ không gian giữa chúng. Trẻ lớn, nhờ vào sự phát triển nhận thức về hệ tọa độ và các vùng không gian, trẻ dần dần phát hiện ra mối quan hệ không gian giữa các vật và biết phản ánh mối quan hệ đó bằng lời nói. Cuối tuổi Mẫu giáo phần lớn trẻ đã thực hiện được sự định hướng trong không gian mà không phụ thuộc vào vị trí của bản thân trẻ, trẻ đã thích nghi khi chuẩn thay đổi nghiên cứu về nội dung dạy trẻ Mẫu giáo định hướng trong không gian nhà giáo dục học A.M. Leusina cho rằng:

+ Đối với trẻ dưới 3 tuổi cần mở rộng dần các hướng quan sát vật đặt và tăng dần khoảng cách so với trẻ.

+ Đối với trẻ 3-6 tuổi trước hết dạy trẻ xác định các hướng chính cơ thể trẻ, dựa vào sự nhận biết và nắm được tên gọi cũng như sự sắp đặt các bộ phận trên cơ thể của mình một cách chính xác, lấy đó làm cơ sở để hình thành khả năng định hướng trong không gian.

2.3. Quá trình hình thành sự định hướng trong không gian của trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi

2.3.1. Nội dung dạy trẻ Mẫu giáo5 – 6 tuổi về định hướng trong không gian

Trẻ mẫu giáo lớn đã có khả năng xác định các hướng không gian cơ bản như: phía trên – phía dưới, phía trước- phía sau, phía phải- phía trái của bản thân trẻ, không gian định hướng đã được mở rộng hơn. Tuy nhiên giáo viên cần tác động để tiếp tục phát triển cho trẻ khả năng xác định vị trí của những đối tượng xung quanh so với trẻ và vị trí của bản thân tré giữa những đối tượng xung quanh, mở rộng hơn nữa không gian định hưỡng cho trẻ.

Trẻ 5-6 còn có khả năng xác định các hướng không gian cơ bản như: Phía trên – phía dưới, phía trước- phía sau của người khác.Một mặt, giáo viên cần tiếp tục phát triển hơn nữa khả năng này của trẻ, mặt khác cần dạy trẻ xác định phia phải- phía trái của người khác dựa trên sự xác định tay phải và tay trái của người đó.

Đến cuối lớp mẫu giáo lớn giáo viên cần chú ý dạy trẻ học cách xác định vị trí đồ vật này so với đồ vật khác nhằm hình thành cho trẻ kỹ năng xác định và diễn đạt bằng lời nói mối quan hệ không gian giữa các vật. Điều đó có tác dụng giúp trẻ dễ dàng sự định hướng trong không gian với việc sử dụng hệ tọa độ tự do mà chuẩn là vật bất kì.

Trong thời gian trẻ học ở lớp mẫu giáo lớn, giáo viên cafn tiếp tục phát triển cho trẻ kỹ năng định hướng trên mặt phẳng như: góc trên bên phải, góc trên bên trái, góc dưới bên phải, góc dưới bên trái. Dạy trẻ định hướng và thay đổi hướng khi di chuyển.

2.3.2. Phương pháp hình thành sự định hướng trong không gian cho trẻMG 5 – 6 tuổi

Ở lớp Mẫu giáo lớn, giáo viên cần tiếp tục củng cố cho trẻ những kỹ năng định hướng trên cơ thể mình, trên người khác và các khách thể khác. Đó là điều kiện quan trọng để trẻ thực hiện sự định hướng trong không gian khi trẻ lấy mình, người khác và vật khác làm chuẩn.

Trẻ mẫu giáo cần nắm được biện pháp phân biệt các hướng khác nhau trên cơ thể người, con vật và các đồ vật khác. Việc dạy trẻ phân tích sơ đồ không gian của các đối tượng khác nhau cần diễn ra trong quá trình trẻ tri giác trực tiếp các đối tượng đó. Tuy nhiên, một số vật xung quanh trẻ lại không có những đặc tính không gian rõ ràng, như: quả bóng, khối vuông… nên trẻ rất khó khăn khi phân tích các đặc tính này ở các vật đó. Vì vậy giáo viên không nên sử dụng các vật này làm vật chuẩn để trẻ luyện tập xác định mối quan hệ không gian giữa các vật. Việc hình thành ở trẻ kỹ năng phân tích sơ đồ không gian của các đối tượng khác nhau là rất cần thiết cho sự định hướng trong không gian khi trẻ lấy vật khác làm chuẩn và hiểu mối quan hệ không gian giữa các vật. Các kỹ năng này có thể được hình thành ở trẻ thông qua việc trẻ thực hiên các nhiệm vụ chơi trong các trò chơi học tập và các bài luyện tập.

Trẻ mẫu giáo lớn cần nắm được kỹ năng xác định phía phải- phía trái của người khác trên cơ sở xác định tay phải và tay trái của người đó: Phái phải của người là phía bên tay phải của người, phía trái của người là phía bên tay trái của người đó. Để hình thành kỹ năng này, ban đầu trẻ cần xác định tay phải và tay trái của người khác khi người đó đứng cùng hướng với trẻ, sau đó là ở các hướng bất kì bằng cách hình dung mình đứng vào vị trí và cùng hướng của người đó.

Dựa trên những kiến thức và kỹ năng đã có ở trẻ, giáo viên tiến hành cho trẻ luyện tập định hướng trong không gian khi trẻ lấy mình, người khác và vật khác làm chuẩn. Các nhiệm vụ dành cho trẻ mẫu giáo lớn cần phức tạp hơn so với các nhiệm vụ cho trẻ bé và nhỡ, như: không gian mà trẻ cần định hướng mở rộng hơn, số lượng các hướng mà trẻ cần xác định đồng thời tăng dần, số lượng các dấu hiệu của đối tượng mà trẻ cần định hướng nhiều hơn…

2.4. Đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi về định hướng trong không gian

Trẻ 5-6 tuổi thì số các thao tác thực hành định hướng của trẻ được rút bớt và dần dần trẻ dùng mắt để xác định vị trí của các vật. Nhờ vậy, không gian định hướng của trẻ ngày càng được mở rộng ra xa trẻ. Ở trẻ mẫu giáo lớn bắt đầu hình thành biểu tượng về một không gian thống nhất với sự chuyển tiếp giữa các vùng không gian. Nhờ vậy mà trẻ đã xác định được vị trí của vật đặt cách xa trẻ hay nằm ở các điểm trung gian giữa hai vùng. Trẻ mẫu giáo lớn đã bắt đầu hình thành biểu tượng về một không gian thống nhất và trẻ nhận biết được các hướng chính của nó. Như vậy, cuối tuổi mẫu giáo phần lớn trẻ đã thực hiện được sự định hướng trong không gian mà không phụ thuộc vào vị trí của bản thân trẻ, trẻ đã biết thay đổi điểm chuẩn trong quá trình định hướng.

2.5. Thực trạng hình thành sự định hướng trong không gian cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi về trường Mầm non Phúc Đồng- Hương Khê- Hà Tĩnh

+ Thuận lợi

- Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục và sự quan tâm của ban giám hiệu trưởng trường Mầm non Phúc Đồng Hương Khê tạo điều kiện đầu tư về cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động.

- Trẻ ở cùng độ tuổi nên mức độ nhận thức tương đối đồng đều.

- Bản thân luôn tìm tòi học tập các đồng nghiệp, đã được dự giờ các hoạt động và dự thao giảng một số tiết mẫu của trường, của huyện nên cũng đã học tập được một số kinh nghiệm trong phương pháp giảng dạy bộ môn làm quen với toán.

- Được sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh về các phế phẩm, tạp chí, lịch cũ, dụng cụ học tập… giúp tôi có điều kiện làm một số đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho tiết học.

+ Khó khăn

- Làm quen với toán là môn học khó, đòi hỏi chính xác, khoa học nên không phải giáo viên nào cũng nắm vững.

- Trong lớp có một số trẻ chưa qua lớp mầm, chồi nên việc tiếp thu còn hạn chế, thiếu hệ thống.

- Việc tổ chức các tiết học ở lớp nhìn chung còn chưa phong phú.

- Một số trẻ khả năng thực hành về định hướng trong không gian còn hạn chế.

- Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con vì chỉ nghĩ các cháu đến trường mầm non chủ yếu là vui chơi và ăn ngủ và thường cho con nghỉ học tùy tiện nên ít nhiều làm ảnh hưởng tới kết quả học tập của lớp.

 III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH SỰ ĐỊNH HƯỚNG TRONG KHÔNG GIAN CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI

3.1. Dạy trẻ định hướng các phương hướng đối với bản thân mình thông qua các trò chơi, bài thơ

Ví dụ: Cho trẻ ngồi theo hàng ngang, chuẩn bị cho mỗi trẻ một rổ đồ chơi có các hình tròn, hình vuông, hình tam giác, hình chữ nhật và một số đồ dùng để xung quanh lớp: búp bê, thỏ, gấu

- Cô thấy lớp chúng mình đi học ngoan cô tặng mỗi bạn một rổ đồ chơi.

- Bây giờ chúng mình cùng chơi trò chơi với rổ đồ chơi này nhé!

+ Chúng mình cầm hình vuông bằng tay phải dơ lên nào!

+ Chúng mình cầm hình tròn bằng tay trái dơ lên nào! (Cô cho trẻ làm vài lần sau đó cất rổ đồ chơi đi).

- Chúng mình chơi rất giỏi, vậy bây giờ chúng mình hãy cho cô biết:

+ Ở bên tay phải con có bạn nào ngồi nhỉ?

+ Phía bên tay trái có bạn nào ngồi cạnh?

+ Chúng mình trá lời rất đúng, vậy ngoài các bạn ngồi sát cạnh mình thì chúng mình hãy quay đầu sang phía tay trái (phía tay phải) xem có những bạn nào nữa nhé?

- À vậy là phía có tay phải gọi là phía phải, phía có tay trái gọi là phía trái đấy!

- Chúng mình rất thông minh. Vậy chúng mình hãy nghe cô nói tên một số đồ vật và trả lời xem đồ vật đó ở phía bên nào của mình nhé!

- Bạn búp bê ở phía bên nào của cháu? Bạn gấu ở phía bên nào của cháu?

3.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy trẻ

Ví dụ: Trong chủ đề “phương tiện giao thông” ở tiết dạy trẻ định hướng không gian: trên, dưới, trước, sau. Chúng tôi cho trẻ em xem tất cả các loại phương tiện giao thông đường thủy, đường bộ, đường sắt và trò chuyện nhẹ nhàng về chúng, sau đó chúng tôi có một số hình ảnh về bầu trời có máy bay bay ra và hỏi trẻ là trên bầu trời có gì? (Máy bay). Phía dưới có gì? (Thuyền buồm) và ngược lại. Tiếp theo, chúng tôi cho một đoàn tàu ra và hỏi trẻ: phía trước toa tàu là gì?  (đầu tàu), phía sau đầu tàu có gì?(có toa tàu). Chúng tôi có hình ảnh một chiếc ô tô con ra trước tiếp theo là xe máy, xích lô và  xe đạp.

3.3. Vận dụng linh hoạt các phương pháp, đồng thời tích hợp nội dung các môn học

Dạy trẻ định hướng trong không gian không những tiến hành trện tiết học mà phải tổ chức cho trẻ mọi lúc, mọi nơi.

Tích hợp cho trẻ xác định hướng khác nhau.

Ví dụ: Phân nhóm một số đồ dùng, đồ chơi trong lớp

Để các đồ dùng đồ chơi ở các hướng trên, dưới các kệ và các hướng khác nhau, trẻ tìm đồ dùng đồ chơi theo yêu cầu và hỏi đồ dùng đồ chơi ở hướng nào của con hoặc một trẻ tìm hỏi trẻ khác đồ dùng đồ chơi đó ở hướng nào của bạn. Sau khi tìm các đồ dùng đồ chơi theo yêu cầu và đủ để phân nhóm các đồ vật, cô vào bài mới dạy tìm hiểu môi trường.

Hoặc có thể tích hợp sau khi học bằng trò chơi củng cố “Hãy sắp xếp các đồ dùng đồ chơi theo nhóm và theo các hướng khác nhau đối với bản thân mình” như: nhóm đồ dùng để học tập ở bên phải, đồ dùng vệ sinh cá nhân bên trái, đồ chơi ở trước mặt… và nâng cao yêu cầu sắp xếp các nhóm đồ dùng đồ chơi theo các hướng đối với người khác: một trẻ lên đứng và trẻ khác lên sắp xếp các nhóm đồ dùng theo các hướng của bạn.

(Hoặc ta có thể áp dụng trò chơi này vào tiết học “Phân nhóm đồ dùng trong gia đình: đồ dùng để ăn, đồ dùng để uống, đồ dùng để mặc, đồ dùng sinh hoạt, đồ dùng giải trí… và cách chơi tương tự ví dụ như đồ dùng để mặc thì nón đội phía trên đầu, dép đi phía dưới chân…).

IV. KẾT LUẬN

Việc đưa phương pháp định hướng trong không gian cho trẻ vào bậc học Mầm non là một phương pháp vô cùng hữu hiệu nhưng dường như vấn đề này vẫn chưa được quan tâm, đầu tư một cách triệt để và toàn diện. Đặc biệt đối với trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi thì phương pháp định hướng trong không gian trong toán học thật sự rất quan trọng. Nội dung dạy trẻ định hướng trong không gian có một ý nghĩa lớn để góp phần hình thành nhân cách con người mới, nó góp phần giúp trẻ sau này nắm bắt nhanh hơn, sâu sắc hơn các khái niệm về định hướng trong không gian trong việc học toán ở trường phổ thông.

Qua quá trình đưa một số biện pháp định hướng trong không gian cho trẻ Mầm non 5-6 tuổi ở trường Mầm non Phúc Đồng- Hương Khê- Hà Tĩnh. Tôi nhận thấy được mức độ hiệu quả của biện pháp này, trẻ thật sự hứng thú tích cực vào tất cả các hoạt động diễn ra tại lớp, từ sinh hoạt, vui chơi, học tập. Khả năng tìm tòi, quan sát so sánh của trẻ được tốt hơn thông qua các hoạt động làm quen với Toán.

Như vậy, trong quá trình dạy trẻ làm quen với toán để giúp trẻ nhận thức sâu sắc, hiểu rõ các biểu tượng trên, việc đầu tiên không thể thiếu được đó là truyền thụ kiến thức của giáo viên đến trẻ. Giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm tòi để truyền tải những nội dung cần mang đến cho trẻ sao cho trẻ cảm thấy đơn giản, gần gũi mà lại dễ hiểu như vậy giờ học mới có hiệu quả. Đặc biệt “Dạy trẻ định hướng không gian” là một vấn đề chúng tôi luôn quan tâm, suy nghĩ nhiều để tìm ra được những biện pháp tốt nhất để dạy trẻ.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • 1]. Đỗ Thị Minh Liên (2018), Lí luận và phương pháp hình thành biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ Mầm non, Nxb ĐH Sư phạm.
  • 2]. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1979), Giáo dục học tập 1, tập 2, Nxb Giáo dục Việt Nam.

[3]. Đinh Thị Nhung (2000), Toán và phương pháp hình thành các biểu tượng toán học cho trẻ mẫu giáo, NXB ĐHQG Hà Nội.

  • 4]. Nguyễn Ánh Tuyết (1998), Tâm lý học trẻ em trước tuổi học, Nxb Giáo dục Việt Nam.
  • 5]. Leusina. A. M (1964), Dạy đếm, Nxb Giáo dục Matxcova.
  • 6]. Leusina. A. M (1974), Hình thành các biểu tượng Toán học sơ đẳng cho trẻ lứa tuổi mầm non, Nxb Giáo dục Matxcova.      
  • 7]. Vengher. L. A (1969),Trò chơi học tập giáo dục tính cảm nhận, Nxb Giáo dục Matxcova.