Ngày 17/03/2021, Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương Na Uy quyết định trao tặng giải thưởng Abel 2021 cho hai nhà toán học László Lovász (Viện Toán học Alfréd Rényi và Đại học Eötvös Loránd tại Budapest, Hungary) và Avi Wigderson (Viện Nghiên cứu cao cấp tại Princeton, Mỹ). Đây là giải thưởng danh giá tương tự Nobel trong lĩnh vực toán học.
Theo đơn vị tổ chức giải thưởng, Avi Wigderson và László Lovász được vinh danh bởi công trình nghiên cứu liên quan đến việc chứng minh các định lý và phát triển các phương pháp trong toán học thuần túy (pure mathematics) song lại mang tính ứng dụng thực tế cao đối với khoa học máy tính, đặc biệt là trong mật mã học. Đây là sự công nhận đối với “những công trình quan trọng mang tính quyết định của họ trong khoa học máy tính lý thuyết và toán học rời rạc, cũng như vai trò của hai nhà khoa học trong việc khiến các lĩnh vực này trở thành trung tâm của toán học hiện đại”, Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương Na Uy lý giải thêm.
Hans Z. Munthe-Kaas, nhà toán học Đại học Bergen (Na Uy), người từng là chủ tịch ủy ban Giải thưởng Abel, nhận định: “Hai nhà toán học đã thực sự mở ra cái nhìn sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ tương tác giữa khoa học máy tính và toán học.”
Avi Wigderson
Chân dung Avi Wigderson – nhà Toán học, nhà Khoa học máy tính người Israel.
Avi Wigderson (sinh năm 1956) là nhà Toán học, nhà Khoa học máy tính người Israel. Hiện ông đang là giáo sư Viện Nghiên cứu Cao cấp Princeton. Các công trình của Avi Wigderson tập trung nghiên cứu về lý thuyết độ phức tạp, tính toán song song, lý thuyết tổ hợp và đồ thị, thuật toán tối ưu hóa tổ hợp, hệ thống phân tán và mạng thần kinh. Giáo sư Avi Wigderson là chủ nhân của hàng loạt giải thưởng danh giá như giải thưởng Knuth của Hiệp hội Máy tính (ACM-SIGACT) năm 2019, giải G¨odel của Hiệp hội Khoa học máy tính châu u (EATCS) năm 2009; Giải Conant của Hiệp hội Toán học Hoa Kỳ (AMS) năm 2008.
Một trong những nghiên cứu quan trọng nhất của Avi Wigderson là về Zero-knowledge Proof (ZKP). Đây là giao thức kỹ thuật số cho phép chia sẻ dữ liệu giữa hai bên mà không cần sử dụng mật khẩu hay thông tin nào khác liên quan đến giao dịch.
Ba tính chất của ZKP là tính trọn vẹn (Completeness), tính đúng đắn (Soundness), tính không có thông tin (Zero-Knowledge). ZKP được ứng dụng trực tiếp trong Quy định bảo vệ dữ liệu chung, nhằm xây dựng các kế hoạch xác thực an toàn hơn hoặc bảo mật dữ liệu tốt hơn cho các giao dịch có chứa dữ liệu nhạy cảm, không thể phân tách. Ví dụ điển hình của ứng dụng ZKP là giao thức OTR được sử dụng để nhắn tin, xác thực tính an toàn và trao đổi khóa.
László Lovász
Chân dung László Lovász – nhà toán học người Hungary nổi tiếng về công trình nghiên cứu Toán học tổ hợp.
László Lovász (sinh năm 1948) là nhà toán học người Hungary nổi tiếng về công trình nghiên cứu Toán học tổ hợp. Ông được thưởng giải Wolf về Toán học và giải Knuth năm 1999, Giải Fulkerson (1982) và Giải Pólya (SIAM) (1979), đồng thời là chủ nhân của ba Huy chương vàng tại Olympic Toán quốc tế (các năm 1964, 1965, 1966). Lovász làm giáo sư ở Đại học Yale trong thập niên 1990 và là thành viên hợp tác của Trung tâm nghiên cứu Microsoft cho tới năm 2006. László Lovász đảm nhiệm chủ tịch Hiệp hội Toán Quốc tế từ 2007. Các nghiên cứu của László Lovász tập trung về tổ hợp cực trị, tổ hợp xác suất, giới hạn của dãy đồ thị.
Một trong những công trình có tầm ảnh hưởng nhất của László Lovász là thuật toán LLL, liên quan đến một đối tượng hình học cơ bản là mạng tinh thể. Với thuật toán LLL do TS. Lovász và đồng nghiệp thực hiện, các nhà nghiên cứu khác có thể phát hiện điểm yếu của một số hệ thống mật mã, chỉ ra cách chúng có thể được đơn giản hóa và sau đó dễ dàng bị bẻ khóa xâm nhập. Đồng thời, thuật toán cũng chỉ ra sự cần thiết của các kỹ thuật mã hóa mới trong thời đại của điện toán lượng tử (quantum computing).
Hiện nay, các hệ thống mã hóa thường dựa trên số nguyên tố. Tuy nhiên, máy tính hiện không thể nhân các số lớn một cách nhanh chóng, do đó, chưa thể đảm bảo sự an toàn của mã hóa, nhưng các máy tính dựa trên lượng tử có thể. Điều đó đòi hỏi một sự thay đổi đáng kể ở các hệ thống mã hóa dựa trên số nguyên tố. Giải pháp thay thế khả dụng duy nhất là các lược đồ dựa trên mạng tinh thể dựa trên thuật toán LLL.
Russell Impagliazzo, giáo sư khoa học máy tính tại Đại học California, San Diego, cho biết thuật toán LLL cũng dẫn đến sự ra đời của mã hóa đồng hình (Homomorphic encryption), cho phép thực hiện các phép tính trên dữ liệu được mã hóa mà không cần giải mã. Tiến sĩ Impagliazzo cho biết mã hóa đồng hình có thể cho phép người dùng cung cấp thông tin tài chính được mã hóa cho văn phòng tín dụng và văn phòng tín dụng sẽ tính được điểm tín dụng mà không cần tìm hiểu thông tin riêng tư của khách hàng. Theo đánh giá của ông, thuật toán dường như đã đủ nhanh (“almost fast enough”) để ứng dụng trực tiếp trong thực tế.
Giải thưởng Abel được Chính phủ Na Uy công bố năm 2002 nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh nhà toán học người Na Uy Niel Henrik Abel. Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương Na Uy là hội đồng giải thưởng. Việc lựa chọn chủ nhân của giải thưởng Abel dựa trên cơ sở khuyến nghị của Ủy ban Abel gồm năm nhà toán học được quốc tế công nhận. Kể từ năm 2003, giải thưởng được tổ chức hàng năm để đánh dấu những tiến bộ quan trọng trong toán học. Những người từng đoạt giải trước đây bao gồm Andrew J. Wiles, nhà toán học đã chứng minh được định lý lớn Fermat và hiện đang làm việc tại Đại học Oxford; John F. Nash Jr., nhà khoa học được tái hiện cuộc đời trong bộ phim “A Beautiful Mind”; và Karen Uhlenbeck, giáo sư danh dự tại Đại học Texas ở Austin, người phụ nữ đầu tiên nhận được Abel.
Sưu tầm theo https://blog.vinbigdata.org/chan-dung-hai-nha-toan-hoc-la-chu-nhan-giai-thuong-abel-2021/
Tế bào gốc (TBG) hiện nay là công nghệ y học tiên tiến nhất, song cũng đang gây nên những tranh luận và chia rẽ sâu rộng trong ứng dụng trị liệu. Bài viết phân tích về các xu hướng phát triển của trị liệu TBG, từ đó đề xuất định hướng phát triển nghiên cứu và ứng dụng TBG ở Việt Nam.
Xu thế phát triển trị liệu của tế bào gốc
TBG là mầm của sự sống và là một tập thể đa dạng hiện diện ngay từ khi phôi được hình thành (gồm TBG phôi, TBG thai nhi), trong tiến trình sinh sản (TBG cuống rốn), và ở mọi cơ quan khi trưởng thành (TBG tuỷ, răng, da, tim, tuỵ, thần kinh v.v.). Số lượng và chức năng của TBG giảm dần theo tuổi thọ và đóng vai trò quyết định trong tiến trình lão hoá và chết. Giá trị trị liệu của TBG được dựa theo tính biệt hoá nhiều hay ít của các loại tế bào. Theo đó, TBG toàn năng và đa năng lấy từ các tế bào đầu tiên của phôi và có thể biệt hoá thành tất cả trên 200 loại tế bào của cơ thể; TBG đơn năng lấy từ các cơ quan chỉ có thể biệt hoá thành loại tế bào của cơ quan đó. Tuy nhiên, với kỹ thuật hiện đại, các TBG đơn năng cũng có thể được biệt hoá thành rất nhiều loại tế bào khác; chẳng hạn, TBG trung mô (TBG-TM hay MSC, Mesenchymal Stem Cell) ngoài khả năng biệt hoá thành tế bào sụn, xương, cũng có thể được biệt hoá trong điều kiện thí nghiệm thành tế bào thần kinh, tim. TBG cũng có liên hệ mật thiết đến các bệnh do sự tăng hoặc giảm số lượng hoặc do đột biến như TBG ung thư, hiện được coi là nguồn gốc của ung thư và là đối tượng rất quan trọng cho nghiên cứu và trị liệu các bệnh này.
Gần đây, nghiên cứu TBG đã có bước tiến đột phá khi chuyển thành công các gene đặc hiệu (Oct4, Sox2, cMyc và Klf4) vào tế bào da để biệt hoá thành TBG toàn năng hay đa năng (iPS) trong phòng thí nghiện trong thời gian ngắn (4 tuần), có tiềm năng ứng dụng rất rộng lớn trong y học (Hình 1). Thành quả này đã được trao tặng giải Nobel y học năm 2012. Tương tự, có thể chuyển đổi tế bào da thành các tế bào có chức năng phúc tạp hơn như mạch máu hay thần kinh. Ước tính sẽ có thêm nhiều loại TBG được khám phá chẳng hạn như TBG rất nhỏ giống tế bào phôi (VSELs, very small like embryonic stem cell- Mariusz Ratajczak, Hoa kỳ) hay tế bào biệt hoá vạn năng (endogenous pluripotent stem cell hay ePS – Thea D. Tlsty, ĐH UCSF) được tìm thấy từ nhũ mô. Đặc điểm của các tế bào này là có tính toàn năng như TBG phôi, nhưng không tăng sinh vô hạn giúp giảm thiểu khả năng gây ung bướu.
Hình 1. iPS có thể được tạo từ tế bào da của người bệnh để nghiên cứu bệnh lý và tìm thuốc mới cho điều trị
Công nghệ chuyển gene vào các TBG cũng đang tạo ra các dòng TBG mới với tiềm năng trị liệu cao và chuyên biệt. Trong đó có TBG chuyển gen thụ thể tế bào T (CAR-T) dùng trị bệnh ung thư, gene ANP (artrial naturetic protein) trị nhồi máu cơ tim.
Đặc biệt với kỹ thuật chỉnh sửa hệ gen CRISPR, các dòng TBG của nhiều loại bệnh liên quan đến di truyền, ung thư, tự nhiễm sẽ được tạo ra để dùng cho nghiên cứu và trị liệu. Hiện nay một số dòng TBG thuộc các bệnh di truyền do đơn gene (monogenic diseases) như bệnh hồng cầu Thalassemia do Hgb, thoái hoá cơ bắp (Duchenne muscular dystrophy (DMD) do dystrophin), miễn nhiễm SCID (do gene adenosine deamilase (ADA) đột biến)… đang được nghiên cứu. Hầu hết những TBG trên đang được dùng trong các thử nghiệm lâm sàng ở các trung tâm nghiên cứu trên thế giới để đánh giá khả năng trị liệu cho các bệnh lý. Dự đoán có gần 100 loại bệnh từ thẩm mỹ, biến dưỡng, tự nhiễm và ung thư có thể được trị liệu bằng TBG. Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ này, ứng dụng trị liệu TBG đang được tạm chia thành 2 luồng “chính thống” và “không chính thống”.
Trị liệu dùng TBG “chính thống”
Hiện có hai cơ quan quốc tế chế tài các luật về TBG gồm Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) và Cơ quan Y tế Châu Âu (EMEA). FDA và EMEA còn quản lý tất cả các sản phẩm làm từ TBG hay phủ tạng người (HCT/Ps).
Dù có rất nhiều tiềm năng ứng dụng, nhưng theo định nghĩa của FDA/EMEA, các TBG được xếp vào tiêu chuẩn “dược phẩm”, cho nên mọi ứng dụng của TBG cần phải thông qua những nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng nghiêm ngặt. Trên thực tế, việc đánh giá, chế biến và bảo quản TBG còn phức tạp và tốn kém hơn rất nhiều so với thuốc hoá dược, do những nguyên nhân chính sau:
Hình 2. Sơ đồ mô phỏng từ ly trích, sản xuất đến ứng dụng TBG cho trị liệu
Từ các điều khoản cần khắc phục và hoàn chỉnh nêu trên, dù đã tốn phí hàng nhiều tỷ đô la ở những trung tâm hàng đầu thế giới, hiện chỉ có rất hiếm sản phẩm TBG được cho phép sử dụng. Các sản phẩm chỉ được giới hạn cấp phép cho TBG máu, tuỷ, cuống rốn và mô mỡ. Bảng dưới đây liệt kê 8 sản phẩm TBG được các cơ quan y tế của những nước phát triển cấp phép cho đến năm vừa qua. Những sản phẩm này đều có giá trị kinh tế rất cao, như Prochymal được Công ty Mesoblast, Úc mua lại từ chủ xưởng Osiris, Hoa kỳ với giá 100 triệu đô la; để cạnh tranh, MediPost, Hàn quốc sản xuất TBG-TM cuống rốn có khả năng trị nhiều loại bệnh gồm xương khớp, thần kinh, tiểu đường có trị giá trên 500 triệu đô la.
Bảng liệt kê 8 sản phẩm TBG (cho tới năm 2015) đạt tiêu chuẩn “dược phẩm” và được cấp giấy phép của cơ quan y tế quốc gia Hoa Kỳ, Hàn quốc và Ý. Các sản phẩm này hiện đang được kinh doanh và sử dụng ở một số nước trên thế giới.
Trị liệu dùng TBG “không chính thống”
Xin xác định “không chính thống” không có nghĩa là bất hợp pháp, mà chỉ là những ứng dụng TBG ở ngoài luồng giám sát và chứng nhận của FDA và EMEA. Trên thực tế, việc sử dụng TBG trong trị liệu đã có từ rất lâu trước khi có công nghệ TBG phôi, mô mỡ hay iPS ra đời. Tuy nhiên, các ứng dụng chỉ giới hạn trong việc truyền TBG tuỷ sống, hoặc gián tiếp như máu hay máu cuống rốn. Các ứng dụng TBG này được coi là những “dịch vụ y tế” ở các bệnh viện và được phép thực hiện vì tuân theo quy định của FDA và nhiều cơ quan y tế thế giới cho phép đó là “thao tác tối thiểu và không làm thay đổi cấu trúc tế bào”.
Với đà phát triển nhanh, trong thời gian gần đây TBG dùng để trị liệu được chọn từ các nguồn khác nhau mô mỡ, dây rốn, tủy, máu ngoại vi… thuộc dòng TBG-TM. Những nghiên cứu cho thấy số lượng TBG-TM trong mô mỡ rất dồi dào và cao hàng trăm lần so với tuỷ hoặc giây máu cuống rốn, ngoài ra việc ly trích đơn giản nên chúng trở thành nguồn thông dụng nhất hiện nay.
Hình 3. SVF từ mô mỡ là nguồn cung cấp dồi dào TBG TM
Trong những năm gần đây, nghiên cứu về TBG-TM gia tăng mạnh và có số lượng đăng tải nhiều nhất so với các loại TBG khác. Đặc điểm sinh học chính có thể tóm lược cho TBG-TM là: đa chức năng, an toàn, không tạo ung bướu và biểu hiệu HLA rất thấp nên thường không gây phản ứng miễn dịch; tính kháng viêm rất mạnh (có khả năng ức chế các tế bào miễn dịch chủ yếu như tế bào T, B, tế bào tua, đại thực bào và tế bào sát thủ NK – Hình 4); tính tăng trưởng tế bào, chống chu trình chết, chống lão hoá và nhiễm trùng. Như vậy, về bản chất, TBG-TM có những đặc tính trị liệu của một loại thuốc hơn là tế bào tái tạo (Hình 5). Vì đặc tính dược liệu này, TBG-TM đã được chuyên gia đầu ngành Arnold Caplan (Đại học Case Western, Mỹ) gọi là tế bào thuốc (Medicinal Signaling Cell).
Hình 4. Cơ chế chống viêm của TBG-TM
Hình 5. TBG-TM là loại “thuốc” có thể dùng cho nhiều ứng dụng trị liệu
Các phương pháp dùng TBG không chính thống trên đang được thực hiện ở rất nhiều nơi trên thế giới, kể cả Mỹ (ước tính có gần 200 phòng mạch hay cơ sở dùng TBG trị liệu cho bệnh nhân ở nhiều tiểu bang). So với phương pháp truyền thống, đương nhiên các TBG này còn rất nhiều thiếu sót. Gần đây FDA đã siết chặt hơn các tiêu chí về “thao tác tối thiểu” cho TBG và đã thêm nhiều giới hạn với những trung tâm trị liệu TBG không chính thống. Ngoài FDA, nhiều trung tâm TBG đầu ngành như ISSCR (International Society for Stem Cell Research), ISCT (the International Society for Cell Therapy), NCBI (National Center for Biotechnology Ingormation) thường lên tiếng cảnh báo về độ an toàn và tai nạn của những trị liệu TBG ngoài luồng. Tuy nhiên, tiếng nói đấu tranh cho ứng dụng TBG cũng gia tăng với sự tham gia của các tổ chức uy tín như ARM (Alliance for Regenerative Medicine), AACT (Alliance for the Advanced Cellular Therapy).
Trên thực tế có khoảng gần 1 triệu người Mỹ chọn trị liệu bằng TBG qua những chương trình du lịch y tế tới các nước Nam Mỹ như Mêhicô, Chilê, hay châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippin. Ở nhiều quốc gia, du lịch y tế dùng TBG đang là một ngành kinh doanh có doanh thu hàng tỷ USD. Và nó càng trở nên hấp dẫn khi ngày càng có nhiều những nhân chứng xác thực về hiệu quả trị liệu như phép màu của TBG đối với những căn bệnh nan y. Một chi tiết đặc biệt cần được lưu ý là, đã có rất nhiều công nghệ y sinh tiên tiến được ứng dụng trong các thập niên vừa qua như kháng thể đơn dòng; trị liệu gene; vacxin trị ung thư; tế bào miễn dịch như tế bào tua, tế bào T, NK… nhưng chưa có công nghệ nào được dùng trị liệu ngoài luồng phổ biến và nhiều nơi như TBG. Công bằng mà nói thì tất cả mọi loại thuốc và trị liệu đều có thể gây phản ứng phụ từ không nguy hiểm cho đến nguy hiểm. Trị liệu TBG tự thân thường được quảng bá là an toàn, do đó có thể tạo niềm tin là dùng trị liệu TBG nếu không khỏi bệnh thì cũng chẳng có phản ứng bất lợi nào đối với bệnh nhân. Đây là quan điểm sai lầm. Như trên đã phân tích, tự bản chất TBG rất phức tạp nên bất cứ một thao tác nào cũng có thể gây phản ứng với cơ thể và mang lại hậu quả khó lường. Tuy nhiên, với những gì đang diễn ra, chúng ta cần thẩm định TBG theo nhận định thực tiễn, và công bằng hơn là theo những phê phán kinh điển, tháp ngà để từ đó xây dựng nên những ứng dụng TBG an toàn, đem lại lợi ích thiết thực cho nhu cầu sức khỏe của đại chúng.
Việt Nam cần làm gì?
TBG là khoa học của thế kỷ và của tương lai. Việt Nam có thể dựa vào công nghệ TBG làm mũi nhọn nâng khoa học trong nước lên cao hơn trên trường quốc tế. Chiều hướng này đang được thực hiện ở một số cơ sở y tế và chương trình nghiên cứu ở trong nước như Bệnh viện Huyết học và Truyền máu TP Hồ Chí Minh, Bệnh viện Vạn Hạnh (TP Hồ Chí Minh), Trung tâm Vinmec (Hà Nội), Phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng TBG (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh)… Trong vòng hai năm gần đây, các bệnh viện và trung tâm khoa học lớn ở Việt Nam đều có hoặc đang xây dựng đơn vị TBG cho nghiên cứu và trị liệu. Mặc dù vậy, đánh giá chung cho thấy, số chuyên gia công nghệ TBG của Việt Nam rất thiếu so với nhu cầu, và các hoạt động nghiên cứu còn ở mức độ nhỏ lẻ. Nhìn về tương lai, Việt Nam cần quan tâm tới một số vấn đề sau:
1) TBG là một khoa học đa ngành nên cần một trung tâm đa khoa để có thể khai triển hữu hiệu và toàn diện công nghệ TBG. Trung tâm này cần có các nhóm giải trình tự gene/genome, phân tích protein/proteonomic để xác định chức năng gene; nhóm sinh tin học để hiểu sâu rộng các thông tin về gene và tác động trên tế bào; nhóm miễn dịch học để thiết kế an toàn và đánh giá hiệu năng của TBG; nhóm vật liệu sinh học để tạo sản phẩm ứng dụng cho TBG; nhóm sinh lý động vật cho đánh giá chức năng TBG trên động vật. Nếu điều kiện chưa cho phép, kế hoạch mở rộng liên kết với nhiều trung tâm trong và ngoài nước là rất cần thiết. Nói chung, mục tiêu cuối cùng là chúng ta có khả năng phân loại các dòng TBG qua cấu trúc genome, giải thích chức năng của TBG bằng cơ chế phân tử, vì đó là giải đáp chính xác và quan trọng cần có cho nghiên cứu TBG hiện đại.
2) Cần tổ chức và xây dựng công nghệ TBG thành một bộ phận thiết yếu của ngành y vì các bác sỹ và chuyên gia y tế chính là những người trực tiếp sử dụng TBG trên bệnh nhân và họ cũng chịu trách nhiệm trong công tác tổ chức, giải quyết hậu quả. Theo nghĩa này, chương trình chuyên ngành Translational medicine, với chức năng ứng dụng các kết quả nghiên cứu TBG ở các phòng thí nghiệm cho người bệnh của các trung tâm y tế là thiết yếu. Ở nhiều trường y khoa trên thế giới, ngoài những nghiên cứu cơ bản, đều có ngành Translational medicine để thực hiện mục đích này.
3) Tận dụng ưu thế bệnh lý, môi trường ở Việt Nam để tạo các dòng iPS sử dụng trong nghiên cứu và trị liệu. Thực tế chúng ta có thể tạo ngân hàng iPS cho rất nhiều bệnh lý từ các bệnh nhân và dùng đánh giá nguyên nhân gây bệnh, hiệu năng trị liệu hay tính kháng thuốc để từ đó tìm ra những phương thức trị liệu hữu hiệu và mới mẻ. Chẳng hạn ở Việt Nam đã có rất nhiều bệnh do phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin, việc tạo dòng iPS của những bệnh nhân này sẽ giúp thực hiện nhiều nghiên cứu quan trọng, có giá trị kinh tế cao, vì nhiều hãng dược phẩm trên thế giới rất cần các nghiên cứu chuyên sâu để tìm hiểu vai trò của dioxin đối với chức năng và bệnh lý của hệ miễn dịch. Ngoài ra, các vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện đang gây một số bệnh có tính kháng thuốc cao, iPS tạo từ những loại bệnh này sẽ có giá trị quan trọng cho nghiên cứu cơ chế và tìm thuốc mới không riêng cho các nhà nghiên cứu trong nước mà còn cho cả những chương trình quốc tế. Nghiên cứu các chủ đề y tế trên người Việt là một trách nhiệm tinh thần và khoa học. Trên thực tế, các chương trình như vậy còn có giá trị chiến lược để tránh các đề tài chung chung mà chúng ta lặp lại và dễ bị đánh giá thấp so với những nước tiên tiến.
4) Cần triển khai TBG chuyển gen trong các nghiên cứu trị liệu mới, tuy nhiên chúng ta sẽ khó đi sâu vào công nghệ này trong sản xuất vì việc tạo dòng, duy trì và sản xuất tốn kém hơn nhiều so với lấy từ bệnh nhân. Thay vào đó, chúng ta đầu tư cải tiến kỹ thuật cho các nguồn TBG đang được ứng dụng như TBG mô mỡ, các nguồn TBG cuống rốn, máu để thu hoạch TBG-TM chất lượng, nâng cấp các phương tiện bảo tồn, quản lý có tiêu chuẩn an toàn cao; ngoài ra các nguồn TBG có hiệu năng trị liệu cao cần được tạo thành dòng tế bào chủ, đánh giá và lưu giữ lâu dài để ứng dụng cho một tập thể rộng lớn.
5) Vì tinh tuý khoa học TBG được phát triển ở các nước tiên tiến, chúng ta cần có một chiến lược hợp tác quốc tế trọng tâm, tạo điều kiện hợp tác qua các hội nghị chuyên ngành, phổ biến thành tựu với cơ quan nước ngoài. Đây là một thử thách không nhỏ vì sự cách biệt về khả năng khoa học và khác biệt về văn hoá. Do đó, việc thu hút các chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài có tài và tâm huyết là một kế hoạch cần thiết để rút ngắn khoảng cách hiện đại hoá công nghệ quan trọng này.
6) Về điều hành, cần có sự liên hệ mật thiết hơn giữa các trung tâm nghiên cứu và chính quyền để giảm thiểu rào cản pháp lý cho những ứng dụng khả thi và quan trọng. Vì bản chất xã hội của TBG rất cao, việc thành lập các hiệp hội TBG cấp thành phố, tỉnh sẽ giúp tạo sự tham gia sáng suốt của những bệnh nhân và tránh sự phát triển thiếu tiêu chuẩn ở các địa phương.
7) Điểm cuối cùng và có lẽ quan trọng nhất là cần những kế hoạch mạnh mẽ đầu tư từ Chính phủ và tư nhân. Việc đầu tư một số chương trình trọng điểm, thay vì dàn trải, cho nghiên cứu TBG là rất cần thiết và hợp lý trong hoàn cảnh thiếu chuyên gia và nhân lực như Việt Nam. Ở nước ngoài, các nguồn tài trợ được phân bổ rất hợp lý. Các cơ quan tài trợ chính phủ như NIH (National Institute of Health), NSF (National Science Foundation), CDC (Center for Disease Control), DOD (Department of Defense) được dành cho phát triển nghiên cứu cơ bản. Các hãng dược thường tham gia vào các nghiên cứu tiềm năng ở các đại học. Khi có thành quả thì họ đầu tư kinh phí rất nhiều để đẩy mạnh và đi nhanh đến sản xuất. Các hãng dược cung cấp khoảng 60% kinh phí ở các đại học vì họ biết lợi nhuận thu lại sẽ là gấp bội. Họ có tầm nhìn và chiến lược rất hữu hiệu cho đầu tư công nghệ sinh học. Rất mong trong thời gian tới, các hãng dược trong nước sẽ đầu tư mạnh hơn vào công nghệ TBG. Như vậy, nếu chúng ta phát triển mạnh mẽ nghiên cứu TBG ở các trường đại học, trung tâm nghiên cứu trong nước; áp dụng và xử lý tốt, an toàn ở các bệnh viện; tiếp cận rộng rãi các chương trình nghiên cứu hiện đại trên thế giới, thì chúng ta có thể chuyển đổi trị liệu TBG “không chính thống” thành “chính thống” và tiến tới những thành quả to lớn, quan trọng cho công nghệ TBG trong y tế và khoa học Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
(các tài liệu dưới đây có tính gợi ý cho một số khía cạnh của bài viết này)
Về tổ chức, phát triển và an toàn của trị liêu TBG:
Về khoa học TBG:
Thông tin từ các website:
Tác giả bài viết: TS. Nguyễn Đức Thái – Cố vấn Khoa học, PTN Tế Bào Gốc, ĐHQG & Chương trình Sinh Học Lâm Sàng (Translational Medicine), ĐH Y Dược – Tp HCM
Sáng ngày 29/7/2021, tại Hội trường Tầng 2 -Trường Đại học Hà Tĩnh, Khoa Sư phạm tổ chức Lễ tổng kết khóa học cho sinh viên Đại học K10 và Cao đẳng K25.
Tham dự buổi lễ có thầy giáo Nguyễn Viết Thừa – Phó trưởng phòng Chính trị, công tác học sinh, sinh viên; Đồng chí Dương Thị La - Phó bí thư Đoàn trường, Chủ tịch Hội sinh viên trường cùng các cán bộ, giảng viên và đại diện sinh viên các lớp K10, K25 khoa Sư phạm.
Khóa học 2017 – 2021, khoa Sư phạm có 186 sinh viên gồm cả 2 hệ Đại học và Cao đẳng (5 lớp: 3 lớp ĐH; 2 lớp CĐ). Với sự nỗ lực không ngừng của thầy và trò, sau 4 năm đào tạo, 186 sinh viên đã hoàn thành chương trình đào tạo đúng hạn, nhiều sinh viên đạt thành tích xuất sắc. Báo cáo tổng kết tại buổi lễ, ThS. Đặng Thị Yến - Phó Trưởng Khoa đã đánh giá các mặt thuận lợi, khó khăn, những thành tựu, kết quả nổi bật mà sinh viên K10 và K25 đạt được. Nhiều sinh viên liên tục nhận học bổng dành cho sinh viên có thành tích học tập xuất sắc của các tổ chức trong và ngoài nước và của Nhà trường. Nhiều sinh viên là hạt nhân nòng cốt trong hoạt động của Khoa, của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên Trường, được các cấp bộ Đoàn, Hội tặng thưởng bằng khen, giấy khen, nhiều sinh viên đạt danh hiệu sinh viên 5 tốt, Sao tháng giêng… Đặc biệt trong đợt thực tập sư phạm cuối khoá ở các trường Tiểu học và Mầm non trên địa bàn tỉnh, các em đã để lại những ấn tượng rất tốt đẹp trong lòng học sinh và giáo viên tại các cơ sở. Sở Giáo dục & Đào tạo Hà Tĩnh cũng như các phòng Giáo dục & Đào tạo trong tỉnh đã đánh giá rất cao chất lượng, trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của các em.
Có thể nói, khóa đào tạo 2017 - 2021 của khoa Sư phạm là gặt hái được nhiều thành công tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực. Để có được những thành tựu nói trên, bên cạnh sự nhiệt tình, tận tâm của thầy cô giáo, tinh thần rèn luyện ý chí, nghị lực, vượt khó, học tốt của các sinh viên, còn là sự ủng hộ, tạo điều kiện giúp đỡ, chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường. Ghi nhận những thành tích, những đóng góp, sự nỗ lực cố gắng của các em trong học tập cũng như các hoạt động Đoàn, Hội trong những năm học qua, tại buổi lễ, khoa Sư phạm tặng Giấy khen cho 2 tập thể, 8 cá nhân có thành tích học tập và rèn luyện xuất sắc. Đoàn trường và Liên chi đoàn tặng 16 giấy khen và phần thưởng cho các đoàn viên có nhiều thành tích trong công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong khoá học vừa qua.
Tại buổi lễ, sinh viên Vũ Thị Thanh Tâm (K10B GDMN) đại diện cho tất cả sinh viên K10 và K25 bày tỏ những lời tri ân sâu sắc đối với thầy cô; những tình cảm thật xúc động, thiêng liêng, trong giờ phút chia tay với thầy cô, bạn bè, với khoa Sư phạm và ngôi trường Đại học Hà Tĩnh mến yêu - ngôi nhà thứ hai, nơi nuôi dưỡng và chắp cánh cho những ước mơ của các em được bay cao, bay xa.
Kết thúc buổi Lễ, TS.Lê Văn An thay mặt các thầy cô giáo và sinh viên gửi lời cảm ơn lãnh đạo Nhà trường đã luôn quan tâm, tạo điều kiện cho thầy và trò Khoa Sư phạm; đồng thời, chúc các em sinh viên K10, K25 sớm có được công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo và mong muốn các em sinh viên luôn chủ động, tích cực trong suy nghĩ và hành động; không chùn bước trước những khó khăn; mở lòng với thế giới xung quanh và giáo dục các thế hệ học trò của mình bằng tầm cao của hiểu biết và lòng nhân ái. Những mong muốn của cô cũng là mong muốn chung của tập thể CBGV Trường ĐH Hà Tĩnh, của khoa Sư phạm đối với các em sinh viên K10, K25 tốt nghiệp ngày hôm nay.
Kể từ giờ phút này, mỗi sinh viên ra trường sẽ chọn cho mình một con đường riêng. Đời sinh viên mơ mộng, trải đầy hoa hồng sẽ nhường chỗ cho thực tế đầy thử thách và chông gai. Nhưng chúng tôi tin rằng trong cuộc hành trình sắp tới với những hành trang mà các em được trang bị: kiến thức, kỹ năng, tình yêu, sự đam mê, và cả nhiệt huyết, sức trẻ, các em sẽ trở thành những thầy giáo, cô giáo giỏi trong tương lai, tiếp tục sự nghiệp vẻ vang của những người lái đò thầm lặng. Dù các em đi về phương nào thì chúng tôi, những người đưa đò luôn mong các em sẽ cập bến bờ hạnh phúc. Và mong rằng các em luôn nhớ về mái trường Đại học Hà Tĩnh thân yêu của chúng ta, nơi này luôn đón chào các em với tình cảm thân thương và tinh thần trách nhiệm cao trong nghề nghiệp./.
Một số hình ảnh về buổi lễ:
TS. Lê Văn An – Khai mạc buổi lễ
ThS. Đặng Thị Yến đọc báo các tổng kết khóa học
Sinh viên phát biểu cảm tưởng trước khi ra trường
Đại diện Sinh viên tặng hoa tri ân thầy cô giáo
Trao thưởng cho tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong khóa học