Trong những năm gần đây, Hà Tĩnh đã triển khai dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 - Công nghệ giáo dục ở tất cả các trường Tiểu học trên toàn tỉnh. Việc dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 theo chương trình công nghệ mới đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện chương trình đa số giáo viên cho rằng, vẫn còn một số khó khăn, bất cập. Việc trang bị cho sinh viên ngành Sư Phạm Tiểu học một phương pháp dạy học mới ngay trên ghế nhà trường, giúp các em vững vàng, tránh những bỡ ngỡ và giảng dạy tốt sau khi ra trường là việc làm có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường Đại học Hà Tĩnh nói chung và Khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non nói riêng.
(Từ khóa: Công nghệ giáo dục, chương trình, phương pháp dạy học, Tiếng Việt lớp 1, tiểu học).
Để thực hiên tốt chương trình dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 - CGD ở bậc Tiểu học trên toàn tỉnh. Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các trường lựa chọn giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, có trách nhiệm để dạy lớp 1. Toàn bộ giáo viên trực tiếp đứng lớp đã được tập huấn nội dung và phương pháp dạy học theo tài liệu Tiếng Việt lớp 1 - CGD trước khi triển khai thực hiện chương trình. Việc dạy môn Tiếng Việt lớp 1 theo chương trình công nghệ mới đã đem lại nhiều kết quả khả quan.
Theo đánh giá của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh, việc học tiếng Việt lớp 1 - CGD không chỉ giúp HS nắm chắc tri thức cơ bản về tiếng Việt và hình thành đồng thời các kĩ năng nghe - nói - đọc - viết một cách vững chắc mà HS còn luôn được tham gia các hoạt động học tập một cách chủ động, tự tin. Thông qua việc làm, các thao tác học, các em tự tìm ra và chiếm lĩnh tri thức, được phát huy khả năng tư duy và năng lực tối ưu của mình. Đồng thời quá trình dạy học theo phương pháp Công nghệ giáo dục không chỉ giúp giáo viên nâng cao trình độ và năng lực nghiệp vụ sư phạm mà cách tổ chức dạy học theo quy trình công nghệ còn giúp giáo viên đổi mới phương pháp một cách triệt để. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện chương trình đa số giáo viên cho rằng, vẫn còn một số khó khăn, bất cập. Ví dụ: Chương trình chưa dành nhiều thời gian luyện kỹ năng nói cho học sinh. Sách thiết kế không soạn mục tiêu của tiết dạy nên khi giảng dạy giáo viên phải tự xác định mục tiêu của bài giảng. Bên cạnh đó, một số thông tin trong tài liệu không đồng nhất. Nội dung kiến thức ở một số bài còn nặng so với nhận thức của học sinh... Đối với học sinh có năng lực kém, các em rất vất vả, khó khăn trong việc theo kịp các bạn trong lớp cũng như bảo đảm nội dung bài học.
Việc nắm bắt được những nội dung cơ bản về dạy học CGD cũng như những ưu điểm và hạn chế trong việc dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 - CGD là việc làm cần thiết đối với giáo viên tiểu học và đặc biệt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sinh viên đang theo học ngành Sư phạm tiểu học ở trường Đại học Hà Tĩnh. Từ ý nghĩa thiết thực đó, trong phạm vi bài viết này chúng tôi trình bày về cách dạy Mẫu Âm trong môn Tiếng Việt lớp 1 - CGD.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Về lí luận
CGD coi giáo dục là một quá trình sản xuất đặc biệt. Quá trình dạy học là quá trình làm ra sản phẩm là khái niệm khoa học. Người học - học sinh - là chủ thể của quá trình, tự làm nên sản phẩm do thầy giáo tổ chức hướng dẫn thông qua mối quan hệ phân công hiệp tác trong “dây chuyền công nghệ”: Thầy thiết kế - Trò thi công.
Bản chất của CGD là tổ chức và kiểm soát quá trình dạy học bằng một Quy trình kỹ thuật được xử lý bằng giải pháp nghiệp vụ hay nghiệp vụ sư phạm.
Bản chất việc dạy Tiếng Việt lớp 1 - CGD cho học sinh là dạy cho học sinh hệ thống khái niệm của một môn khoa học nhằm giúp các em chiếm lĩnh được tri thức ngữ âm cơ bản và hình thành các kĩ năng Nghe- Nói- Đọc- Viết tương ứng. Lần đầu tiên học sinh biết tiếng là một khối âm thanh toàn vẹn như một “khối liền” được tách ra từ lời nói. Tiếp đó, bằng phát âm, các em biết tiếng giống nhau và tiếng khác nhau hoàn toàn. Sau đó, các em phân biệt các tiếng khác nhau một phần. Đến đây, tiếng được phân tích thành các bộ phận cấu thành: phần đầu, phần vần, thanh. Trên cơ sở đó, các em biết đánh vần một tiếng theo cơ chế hai bước. Học sinh học cách phân tích tiếng tới đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, đó là âm vị (gọi tắt là âm). Qua phát âm, các em phân biệt được phụ âm, nguyên âm, xuất hiện theo thứ tự của bảng chữ cái TiếngViệt. Khi nắm được bản chất mỗi âm, các em dùng kí hiệu để ghi lại. Như vậy, con đường chiếm lĩnh đối tượng của CGD đi từ âm đến chữ.
1.2. Nguyên tắc xây dựng chương trình Tiếng Việt 1 - CGD
CGD được xây dựng từ 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc phát triển, nguyên tắc chuẩn mực, nguyên tắc tối thiểu. Ba nguyên tắc này xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Bài học Tiếng Việt1-CGD.
- Nguyên tắc phát triển: đòi hỏi mỗi sản phẩm của thời điểm trước(của một tiết học hay một bài học) đều có mặt trong sản phẩm tiếp sau. Vì thế mà các Bài học trong chương trình Tiếng Việt 1- CGD được xây dựng trên một trật tự tuyến tính lôgic, khoa học: Tiếng, Âm, Vần, Nguyên âm đôi.
- Nguyên tắc chuẩn mực: được thể hiện ở tính chính xác của các khái niệm khoa học, tính chuẩn mực trong cách lựa chọn thuật ngữ để định hướng và tổ chức quá trình phát triển của học sinh.
- Nguyên tắc tối thiểu: yêu cầu việc xác định và lựa chọn một số chất liệu tối thiểu và một số vật liệu tối thiểu cho chất liệu đó nhằm đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh lớp1.
1.3. Phương pháp dạy học
Quy trình Công nghệ bao gồm hai công đoạn là công đoạn Lập mẫu và công đoạn Dùng mẫu. Lập mẫu là quá trình Thầy tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh khái niệm trên một vật liệu xác định. Dùng mẫu là luyện tập với vật liệu khác trên cùng một chất liệu với công đoạn Lập mẫu. Để thực hiện quy trình này, thầy phải sử dụng phương pháp Mẫu. Thầy phải xuất phát từ Mẫu, phân tích Mẫu và vận dụng Mẫu. Mỗi mẫu cơ bản trên tương ứng với quy trình của một tiết Lập mẫu. Dựa trên quy trình của tiết Lập mẫu đó có thể xây dưng nhiều tiết dùng mẫu.
Bên cạnh phương pháp Mẫu còn phải kể đến một phương pháp đặc trưng xuyên suốt quá trình dạy học theo quy trình công nghệ - phương pháp Việc Làm. Đây là phương pháp dạy học hoàn toàn mới, xây dựng trên cơ sở sự hợp tác mới giữa Thầy và Trò. Trong đó, Thầy tổ chức việc học của học sinh (Thầy không giảng, chỉ giao việc, hướng dẫn, theo dõi, điều chỉnh) thông qua những việc làm cụ thể và những thao tác chuẩn xác do các em tự làm lấy. Điều này thể hiện rất rõ qua toàn bộ thiết kế TV1-CGD.
Ngoài ra, công nghệ giáo dục cũng dung nạp một số phương pháp truyền thống như: Nêu vấn đề, trực quan, vấn đáp... coi đó như những hình thức, thủ pháp dạy học nằm trong hệ thống của mình.
1.4. Tổ chức nhận xét, đánh giá sản phẩm giáo dục
CGD nhấn mạnh vấn đề đánh giá sản phẩm giáo dục thông qua hoạt động của HS, đánh giá dựa trên quá trình chứ không phải đánh giá dựa vào kết quả tại một thời điểm. Việc dánh giá không chỉ dừng ở phương diện kiến thức, kĩ năng mà còn xem xét ở góc độ ý thức học tập và phương pháp học tập. Học môn Tiếng Việt 1 - CGD, học sinh không chỉ ý thức được các hoạt động của chủ thể mà còn tự kiểm soát được quá trình hình thành tri thức. Học sinh không chỉ có thói quen làm việc độc lập mà còn hình thành một phương pháp tự học, tự mình chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động của chính bản thân. Để đánh giá học sinh, CGD không chỉ nhìn nhận trong cả quá trình mà còn so sánh đối chiếu với chính cá thể đó ở các thời điểm khác nhau. Sự tiến bộ của một HS phải được so sánh với chính bản thân học sinh trong cùng một hoạt động.
Có 4 mức độ đánh giá đối với quá trình chiếm lĩnh đối tượng học sinh: 1. làm được; 2. làm đúng; 3. làm đẹp; 4. làm nhanh.
(Mức 1, 2 là yêu cầu cơ bản, tối thiểu cần đạt cho 100% học sinh. Mức 3, 4 thể hiện sự phân hóa học sinh rõ nét trong quá trình dạy học).
2. DẠY MẪU ÂM TRONG CHƯƠNG TRÌNH MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 1 -CGD
Để dạy tốt mẫu Âm trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 – CGD (gồm 40 bài), trước hết giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung, chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 - CGD nói chung cũng như mục tiêu, nội dung, chương trình dạy học mẫu Âm của từng bài dạy nói riêng.
Biết được đối tượng chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD là cấu trúc ngữ âm của Tiếng Việt. Đông thời nắm được dạy Tiếng Việt lớp 1- CGD là dạy theo thiết kế bài học chuyển từ năm bước lên lớp truyền thống sang bốn việc. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự giác học tập, chiếm lĩnh tri thức và hoàn thiện kỹ năng.
Bên cạnh đó, giáo viên cần phải nắm chắc hai phương pháp dạy chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD.
2.1. Mục tiêu chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 - CGD
Học xong chương trình Tiếng Việt lớp 1 - CGD học sinh đạt được các mục đích sau:
- Học sinh đọc thông, viết thạo, không tái mù.
- Học sinh nắm chắc luật chính tả.
- Học sinh nắm chắc hệ thống cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt.
2.2. Đối tượng chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 - CGD
Đối tượng của môn Tiếng Việt lớp1 - CGD chính là cấu trúc ngữ âm của tiếng Việt bao gồm:
- Tiếng
- Âm và chữ
- Vần
2.3. Nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 1 - CGD
Gồm 4 bài: Bài 1: Tiếng; Bài 2: Âm; Bài 3: Vần; Bài 4: Nguyên âm đôi.
Trong đó, mẫu Âm có 40 bài (34 bài về âm, 06 bài về luật chính tả).
2.4. Phương pháp dạy chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD
- Phương pháp mẫu:
+ Lập mẫu, sử dụng mẫu.
Phương pháp lập mẫu rất quan trọng nó thể hiện sự thành công hay thất bại của cả bài, thể hiện cách làm giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì vậy, phải làm đúng quy trình bốn việc. Thực thi chuẩn xác từng thao tác, không bỏ qua thao tác, không bỏ qua việc làm nào. Dạy hết việc một sang việc hai, hết việc hai sang việc ba, hết việc ba mới sang việc bốn. Dạy đâu chắc đó rồi mới chuyển sang công đoạn dùng mẫu. Việc dùng mẫu củng cố vững chắc hơn chất liệu đã có.
+ Làm mẫu, tổ chức học sinh làm theo mẫu đã có.
- Phương pháp làm việc:
+ Tổ chức việc học của trẻ em thông qua những việc làm cụ thể và những thao tác chuẩn xác do các em tự làm lấy.
2.5. Mẫu Âm
1.5.1. Mục tiêu
- HS nắm chắc 38 âm vị của Tiếng Việt cũng như cách viết của các âm vị này.
- Biết phân biệt nguyên âm, phụ âm qua phát âm dựa vào luồng hơi bị cản hay luồng hơi đi ra tự do.
- Biết ghép phụ âm với nguyên âm tạo thành tiếng. Sau đó, thêm thanh để được tiếng mới.
- Biết phân tích tiếng thanh ngang thành 2 phần: phần đầu và phần vần, phân tích tiếng có dấu thanh thành tiếng thanh ngang và dấu thanh (cơ chế tách đôi).
- Đọc trơn, rõ ràng đoạn văn có độ dài 20 tiếng. Tốc độ đọc tối thiểu là 10 tiếng / phút.
- Nghe viết chính tả được tất cả các tiếng có vần chỉ có âm chính. Viết đúng kiểu chữ thường cỡ vừa. Tốc độ tối thiểu là 3 phút/ một tiếng.
- Nắm chắc cấu tạo của tiếng gồm 3 bộ phận cấu thành: Thanh, âm đầu, vần (vần chỉ có âm chính).
- Nắm chắc luật chính tả e,ê,i.
2.5.2. Quy trình
Bài: Âm (gồm hai công đoạn)
a) Công đoạn 1: Lập mẫu (Mẫu /ba/ - Phân biệt nguyên âm/ phụ âm)
Mục đích, yêu cầu: Làm theo đúng Quy trình 4 việc, thực thi chuẩn xác từng thao tác, làm ra sản phẩm chuẩn xác, xứng đáng là mẫu chuẩn mực cho tất cả các tiết học của bài.
b) Công đoạn 2: Dùng mẫu (Áp dụng cho tất cả các bài còn lại của mẫu Âm). Quy trình giống tiết lập mẫu, tuy nhiên cần chú ý:
Mục đích của tiết dùng mẫu là:
- Vận dụng quy trình từ tiết lập mẫu.
- Luyện tập với vật liệu khác trên cùng một chất liệu với tiết lập mẫu.
+ Yêu cầu giáo viên trong tiết dùng mẫu:
- Nắm chắc quy trình từ tiết lập mẫu.
- Chủ động linh hoạt trong quá trình tổ chức tiết học sao cho phù hợp với học sinh lớp mình.
3. Minh hoạ tiết dùng mẫu:
Tuần 3 (tiết7,8)
ÂM /E/
Việc 1. Chiếm lĩnh ngữ âm
Mục đích: HS phát âm tiếng chứa âm mới, nhận ra âm mới là nguyên âm hay phụ âm, vẽ được mô hình phân tích tiếng có âm mới.
1.1. Giới thiệu âm mới
- GV phát âm tiếng mẫu: /đe/
- Yêu cầu HS phát âm lại: /đe/ (đồng thanh, nhóm, cá nhân)
1.2. Phân tích tiếng
- GV yêu cầu HS phân tích tiếng /đe/ (kết hợp vỗ tay) để biết phần đầu là âm /đ/ và phần vần là âm / e/.
- GV hỏi: Tiếng / đe / có âm nào đã học? Âm nào chưa học?
- HS trả lời: Âm /đ/ đã học, âm /e/ chưa học.
- GV phát âm mẫu: /e/
- GV cho HS phát âm lại âm /e/, nhận xét khi phát âm âm /e/, luồng hơi bị cản hay luồng hơi đi ra tự do?
- HS nhận xét luồng hơi đi ra tự do.
- GV yêu cầu HS kết luận âm /e/ là nguyên âm hayphụ âm?
- Cho HS nhắc lại: /e/ là nguyên âm (Đồng thanh, nhóm, cá nhân)
1.3. Vẽ mô hình
- GV yêu cầu HS vẽ mô hình hai phần tiếng /đe/ trên bảng con. Chỉ tay vào mô hình đọc, phân tích.
- GV vẽ ở bảng lớp
- GV yêu cầu HS viết âm /đ/ vào phần đầu của mô hình và nhắc lại /đ/ là phụ âm.
- GV nói: Phần vần ở mô hình là âm /e/, ta chưa biết chữ, tạm thời để trống, ta vào việc 2.
Việc 2: Học viết chữ ghi âm /e/
Mục đích: HS nắm được cấu tạo chữ e in thường và chữ e viết thường. HS nắm được quy trình và viết được chữ e viết thường cỡ vừa, viết được các tiếng có âm /e/.
2.1. Giới thiệu cách ghi âm bằng chữ in thường.
- GV giới thiệu chữ “e” in thường. (Dùng chữ mẫu hoặc viết mẫu lên bảng, mô tả cấu tạo chữ “e” để HS nhận biết khi đọc bài.)
2.2. Hướng dẫn viết chữ e viết thường.
- GV đưa chữa mẫu, mô tả về độ cao, độ rộng. Sau đó GV vừa viết mẫu vừa hướng dẫn điểm đặt bút, lia bút, chuyển hướng bút, điểm kết thúc.
- HS luyện viết vào bảng con chữ “e” viết thường.
2.3. Viết tiếng có âm vừa học
- GV yêu cầu HS đưa tiếng /đe/ vào mô hình, thay các phụ âm đầu d, ch, c, b để tạo tiếng mới mỗi lần thay đều phân tích kết hợp với tay. (HS ghi vào bảng con)
- GV yêu cầu HS thay dấu thanh vào tiếng /đe/ tạo tiếng mới mỗi lần thay đều phân tích kết hợp với tay. (HS ghi vào bảng con)
* Chú ý: GV hương dẫn học sinh các nét nối và vị trí đánh dấu thanh của tiếng.
2.4. Hướng dẫn HS viết vở “Em tập viết – CGD lớp 1”, tập một
Bước 1: Hướng dẫn HS viết bảng con chữ: bé, da dẻ.
Bước 2: HS visết vở “Em tập viết – CGD lớp 1”, tập một
- GV hướng dẫn cách tô chữ “e” và khoảng cách giữa các chữ theo điểm chấm tọa độ trong vở, nét nối giữa các con chữ b,e, khoảng cách giữa các tiếng trong một từ “ da dẻ”.
- GV kiểm soát quá trình viết của học sinh và chấm bài.
Việc 3: Đọc
Mục đích: HS đọc trôi chảy từ mô hình tiếng đến âm, tiếng từ, câu trong bài.
3.1 Đọc chữ trên bảng lớp
- Phần này giáo viên linh động chọn âm, tiếng luyện tùy vào đối tượng trong lớp mình.
- Đọc từ dễ đến khó, từ tiếng có thanh ngang đến các tiếng có dấu thanh (đe,đè, đé, đẻ, đẽ, đẹ), rồi đến (bè, dẻ , chè).
3.2. Đọc trong sách giáo khoa “Tiếng Việt – CGD lớp 1”, tập 1.(Đọc từ trên xuống, từ trái sang phải).
* Chú ý: sử dụng nhiều hình thức đọc (nhóm, cá nhân, cả lớp), các mức độ đọc ( T- N- N- T)
Việc 4: Viết chính tả:
Mục đích: HS viết đúng chính tả các chữ ghi tiếng chè,be bé, e dè…
4.1. Viết bảng con/ viết nháp
- GV đọc cho HS nghe viết từng tiếng vào bảng con hoặc nháp.
- HS phát âm lại, phân tích rồi viết trên bảng con, viết xong lại đọc lại.
4.2. Viết vào vở chính tả.
GV thực hiên đúng theo quy trình mẫu:
+ Bước 1: Phát âm lại( đồng thanh).
+ Bước 2: Phân tích( bằng thao tác tay).
+ Bước 3: Viết.
+ Bước 4: Đọc lại.
3. KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực tiễn tại các trường tiểu học trên địa bàn Hà Tĩnh, nắm bắt được những thuận lợi, khó khăn và kết quả đạt được của giáo viên khi dạy học môn Tiếng Việt lớp 1- CGD. Chúng tôi đã đi vào phân tích về cách dạy Mẫu Âm trong môn Tiếng Việt lớp 1 -CGD nhằm trang bị cho sinh viên ngành Sư Phạm Tiểu học một phương pháp dạy học mới ngay trên ghế nhà trường, giúp các em vững vàng, tránh những bỡ ngỡ và giảng dạy tốt sau khi ra trường. Thiết nghĩ, đây là việc làm cần thiết và ý nghĩa nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường Đại học Hà tĩnh nói chung và Khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Ngọc Đại (2015), SGK Tiếng Việt lớp 1 – CGD, tập 1,2,3, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
[2]. Hồ Ngọc Đại (2015), STK Tiếng Việt lớp 1 – CGD, tập 1,2,3, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
[3]. Tài liệu tập huấn “Chuyên đề Giáo dục công nghệ môn Tiếng Việt lớp 1”.
Điện tích đi kèm với từ trường được quan sát lần đầu tiên vào ngày 21 tháng 4 năm 1820 bởi Hans Christian Oersted. Năm 1865, James Clerk Maxwell lần đầu tiên đưa ra lý thuyết điện từ cổ điển với sự kết hợp các quan sát, thí nghiệm, phương trình điện, phương trình từ và quang học thành một lý thuyết thống nhất. Hệ phương trình Maxwell đã chứng tỏ rẳng, điện, từ và cả ánh sáng là biểu hiện của điện từ trường. Sự tồn tại đồng thời của điện trường và từ trường được xác nhận bởi định luật Biot-Savart, định luật Gauss đối với từ trường, định luật Faraday về hiện tượng cảm ứng, . . .
Trong định luật về của Max Planck về phát xạ vật chất tối năm 1900 đã hình thành các nguyên lý cơ bản của cơ học lượng tử. Thí nghiệm của Comptom về sự tán xạ của các tia X lên electrons thực hiện năm 1923 đã chứng tỏ rằng các lượng tử ánh sáng của Einstein là các hạt mang năng lượng và xung lượng. Thuật ngữ photon là hạt ánh sáng được tìm ra bởi Lewis trong một bài báo “The Conservation of the Photon” năm 1926. Các photon có bản chất điện tích, khối lượng và spin. Thí nghiệm về nguồn gốc của spin của photon được phác thảo bởi Sir C.V.Raman và Sir Bhagvantam năm 1931. Trong bài báo “Photon: History, Mass & Charge” năm 2006, Okun đã giải tích chi tiết về khối lượng và điện tích của các photon.
Đã có một sự không rõ ràng về khối lượng của photon. Đã tồn tại lý thuyết cho rằng photon không có khối lượng nhưng có xung lượng. Nhưng lâu nay, không có thí nghiệm nào chứng thực là photon không có khối lượng.
Tất cả các lý thuyết trên chỉ ra rằng sự phát xạ điện từ trường là phát ra các hạt được gọi là photon hoặc quanta chứa năng lượng dưới dạng khối lượng, điện tích và spin. Các hạt photon có khả năng di chuyển như là sóng điện từ vuông góc với nhau và cũng vuông góc với phương truyền.
Cấu trúc của một photon theo lý thuyết lượng tử mới
Photon và các hạt lượng tử có các đặc tính lượng tử mà lý thuyết lượng tử của Einstein không thể giải thích được. Lý thuyết lượng tử mới ra đời không chỉ giải thích được vấn đề về bản chất lưỡng tính sóng hạt mà còn nhiều các hiện tượng lượng tử bí ẩn khác. Lý thuyết lượng tử mới dựa trên sự tương tự giữa nguyên tử và hệ mặt trời không chỉ bổ sung mà còn hoàn thiện lý thuyết lượng tử.
Lý thuyết lượng tử mới chỉ ra rằng:
Một photon có một hạt nhân
Khối lượng của photon được tập trung ở hạt nhân
Điện tích của photon được đặt ở hạt nhân
Hạt nhân không nằm chính giữa mà được đặt lệch tâm trong photon
Photon luôn luôn quay
Tốc độ quay là tỉ lệ thuận với tần số và năng lượng của photon và tỉ lệ nghịch với với bước sóng.
Sự quay của photon cùng với khối lượng tập trung ở hạt nhân được đặt lệch tâm giải thích được nhiều hiện tượng và tích chất của bức xạ điện từ trường cũng như bản chất hạt và bản chất sóng và giải quyết được bí ẩn về lưỡng tính sóng hạt của toàn bộ phổ bức xạ điện từ, tạo nên một thành công lớn của lý thuyết lượng tử mới.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại” [1]. Khi môi trường sống bị hủy hoại thì loài người có nguy cơ bị hủy diệt, vì vậy ô nhiễm môi trường hiện nay là một trong những vấn đề vô cùng cấp bách. Giáo dục cho sinh viên ý thức bảo vệ môi trường là một giải pháp bảo vệ môi trường cho tương lai.
Trường Đại học Hà Tĩnh được thành lập từ năm 2007, nhưng hiện nay do đang trong quá trình xây dựng nên còn khá nhiều vấn đề bất cập trong việc xử lý môi trường xung quanh. Hiện nay, số sinh viên của trường với gần 5.000 người cũng góp phần gia tăng tình trạng ô nhiễm. Việc bảo vệ môi trường nên bắt đầu bằng việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, nhất là cho học sinh, sinh viên. Hiện nay, vấn đề giáo dục ý thức, trang bị kiến thức về bảo vệ môi trường trong các nhà trường chưa được chú trọng đúng mức. Một số cuộc thi bảo vệ môi trường đã được tổ chức trong trường học, song nhìn chung, vẫn còn mang nặng tính hình thức, nên ý thức bảo vệ môi trường chưa hình thành rõ nét trong tầng lớp học sinh, sinh viên. Để công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong nhà trường mang lại hiệu quả, chúng ta cần áp dụng một số biện pháp sau:
Thứ nhất, trước khi bắt đầu áp dụng các biện pháp cụ thể, cần phải khảo sát được nhận thức của sinh viên trong trường đối với vấn đề bảo vệ môi trường. Từ đó, chúng ta đánh giá được và đưa ra những phương án thích hợp với từng đối tượng sinh viên. Việc khảo sát sẽ được thực hiện bởi các sinh viên chuyên ngành môi trường, để đảm bảo tính khoa học và chính xác, đồng thời cũng góp phần giúp các em tham gia nghiên cứu, học tập.
Thứ hai, cần nghiên cứu và lồng ghép các kiến thức bảo vệ môi trường trong các môn học. Cùng với việc lồng ghép kiến thức bảo vệ môi trường trong các bài giảng, các cán bộ, giảng viên cần làm gương cho học sinh, sinh viên, khuyến khích các em tự giám sát việc bảo vệ môi trường của nhau, từ đó nhắc nhở, tuyên dương kịp thời các hành vi, hoạt động thân thiện với môi trường.
Thứ ba, nhà trường cũng cần ban hành những quy định cụ thể về việc bảo vệ cảnh quan môi trường lớp học, nhà trường, đường đi, kí túc xá... đưa ý thức bảo vệ môi trường thành một tiêu chí để đánh giá, xếp loại giảng viên, học sinh, sinh viên. Một số hành vi vi phạm kỉ luật của sinh viên như quay cóp, trốn học, sử dụng điện thoại trong giờ học,.. phải đưa ra hình thức xử phạt gắn liền với việc bảo vệ môi trường như chăm sóc cây, nhặt rác trong khu vực trường…
Thứ tư, cần hình thành, phát triển và rèn luyện hành vi, thói quen, thái độ đúng trong bảo vệ môi trường cho các sinh viên trong cuộc sống hằng ngày. Hiệu quả giáo dục môi trường muốn bền vững thì phải hình thành cho sinh viên những thói quen tốt, những kỹ năng sống liên quan đến bảo vệ môi trường. Ví dụ, cần rèn cho sinh viên thói quen đổ rác thải đúng nơi quy định bằng cách bố trí các thùng rác trong phòng học, đầu hành lang, khu vực kí túc xá…, cần phân loại rác thải hữu cơ và vô cơ bằng các loại thùng rác có màu khác nhau...
Thứ năm, thường xuyên tổ chức các phong trào trồng và chăm sóc cây xanh; vệ sinh trường lớp; tổ chức các diễn đàn về môi trường để sinh viên tham gia; giáo dục sinh viên có ý thức tiết kiệm năng lượng như điện và nước, khuyến khích sinh viên có các ý tưởng sáng tạo tái chế rác…
Hiện tại Trường Đại học Hà Tĩnh cũng đã có một số phong trào như trồng cây, hưởng ứng giờ trái đất, đạp xe vì môi trường… nhưng chưa đạt được hiệu quả cao vì phong trào này chỉ diễn ra mỗi năm 1 lần. Hiện tại, cây xanh trong trường đã nhiều cây bị chết, cỏ mọc um tùm che kín cả cây cảnh, sau mỗi kì thi còn có hiện tượng giấy vụn bị vứt tràn lan khắp trường…
Thứ sáu, cần khuyến khích các sinh viên đóng góp ý tưởng hay trong công tác bảo vệ môi trường. Đặc biệt, đối với sinh viên chuyên ngành môi trường cần nghiên cứu và áp dụng các biện pháp xử lý môi trường xung quanh, nhất là khu vực kí túc xá vì lượng rác thải tạo ra ở đây là lớn nhất.
Thứ bảy, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nội dung về giáo dục môi trường, tuyên dương, khen thưởng kịp thời để rút kinh nghiệm, nêu gương và nhân rộng điển hình những tập thể, cá nhân tiêu biểu.
Như vậy, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong nhà trường là một trong những biện pháp quan trọng góp phần xây dựng môi trường học đường thân thiện cũng như mang lại những lợi ích trước mắt và lâu dài. Với những biện pháp trên, các sinh viên Trường Đại học Hà Tĩnh sẽ luôn có một môi trường học tập xanh - sạch - đẹp.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Luật Bảo vệ môi trường, tr 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.
Đại học Hà Tĩnh mừng xuân mới
Đại học xuân này đẹp lắm thay
Giảng đường hoa nở ngát hương bay
Sinh viên náo nức chào xuân mới
Thầy giáo vui vầy đón tết say
Chúc tết an lành đa phú quý
Mừng xuân phát lộc vạn điều hay
Chào năm Mậu Tuất bừng hào khí
Thịnh vượng an khang phúc rạng đầy.
Xuân Mậu Tuất – 2018
Bùi Văn Hạt
Thực hiện kế hoạch năm học 2014 – 2015 của Trường Đại học Hà Tĩnh, ngày 15/07/2015 tại Phòng 403 - A2, cơ sở ITrường Đại học Hà Tĩnh, tổ Toán, Khoa Sư phạm Tự nhiênđã tổ chức bảo vệ thành công bốn bài giảng, thuộc các học phần bộ môn Toán.
Xem thêm: Tổ Toán – Khoa Sư Phạm Tự Nhiên tổ chức bảo vệ thành công bài giảng năm học 2014 -2015