foto1 foto2 foto3 foto4 foto5


+84 0393.885.127
khoasp@htu.edu.vn

Khoa Sư phạm

Trường Đại học Hà Tĩnh

Bồi dưỡng tâm hồn và cảm xúc thẩm mỹ cho học sinh Tiểu học qua môn mĩ thuật

Tóm tắt: Bài viết khẳng định vai trò đặc biệt của môn Mĩ thuật trong việc nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành cảm xúc thẩm mỹ và năng lực cảm thụ cái đẹp cho học sinh tiểu học. Từ cơ sở lí luận của mô hình Mĩ thuật Đan Mạch, quan điểm giáo dục thẩm mỹ của Đinh Gia Lê và định hướng của Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, bài viết phân tích đặc điểm thẩm mỹ của học sinh tiểu học, đồng thời đề xuất các giải pháp tổ chức hoạt động dạy học Mĩ thuật theo hướng trải nghiệm, cảm xúc và sáng tạo, góp phần hình thành nhân cách thẩm mỹ và tình yêu cái đẹp cho thế hệ học sinh mới.

Từ khóa: giáo dục thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ, mĩ thuật tiểu học, năng lực sáng tạo, thưởng thức nghệ thuật.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong chương trình giáo dục tiểu học, Mĩ thuật giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực thẩm mỹ, khả năng quan sát, trí tưởng tượng, óc sáng tạo và cảm xúc nghệ thuật cho học sinh. Nếu các môn học khác chủ yếu tác động đến nhận thức và tư duy logic, thì Mĩ thuật lại hướng đến nuôi dưỡng tâm hồn và cảm xúc, giúp trẻ biết rung động, biết yêu, biết cảm nhận và thể hiện cái đẹp bằng ngôn ngữ nghệ thuật.

T11 2025 Xoan 25 11 1

Hình 1. Học sinh tiểu học ở Đan Mạch trong giờ học mỹ thuật – minh họa mô hình giáo dục nghệ thuật dựa trên cảm xúc và trải nghiệm

Theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, môn Mĩ thuật được xây dựng trên ba mạch nội dung gắn kết: quan sát – sáng tạo – trao đổi/thưởng thức. Trong đó, mạch “thưởng thức” không chỉ dừng lại ở việc nhận biết và phân tích tác phẩm, mà còn là quá trình trẻ đối thoại với cái đẹp, bộc lộ cảm xúc, phát triển khả năng cảm thụ và năng lực thể hiện.

Tuy nhiên, thực tiễn dạy học Mĩ thuật ở tiểu học hiện nay cho thấy phân môn thưởng thức và cảm thụ nghệ thuật chưa thực sự được coi trọng. Không ít tiết học còn thiên về mô tả, thuyết trình khô cứng hoặc cung cấp kiến thức về họa sĩ, dòng tranh, khiến học sinh tiếp nhận thụ động. Các em chưa được sống trong thế giới nghệ thuật bằng cảm xúc, chưa được trải nghiệm cái đẹp bằng giác quan.

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, khi trẻ em tiếp xúc với vô vàn hình ảnh, âm thanh và màu sắc từ công nghệ, việc bồi dưỡng khả năng cảm nhận và phân biệt cái đẹp trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Giáo dục thẩm mỹ không chỉ là dạy cho trẻ vẽ đẹp, mà quan trọng hơn là giúp trẻ sống đẹp, biết yêu thương, biết cảm thông và biết trân trọng cái đẹp trong đời sống thường nhật.

2. NỘI DUNG

2.1. Đặc điểm thẩm mỹ của học sinh tiểu học

T11 2025 Xoan 25 11 2

Hình 2. Học sinh tiểu học Việt Nam tham gia hoạt động vẽ tranh – biểu hiện cảm xúc qua màu sắc và hình khối

Học sinh tiểu học là lứa tuổi có tâm hồn trong sáng, trí tưởng tượng phong phú và cảm xúc chân thật. Các em thường dễ rung động trước những hình ảnh gần gũi, màu sắc tươi sáng, những câu chuyện giản dị mà chứa chan cảm xúc. Cái đẹp đối với trẻ em thường gắn liền với cái thiện – những điều đáng yêu, đáng quý, những hành động tốt đẹp trong cuộc sống.

Ở giai đoạn này, năng lực thẩm mỹ của học sinh mới chỉ ở mức sơ khởi, biểu hiện qua việc yêu thích màu sắc, hình khối và những hình ảnh dễ hiểu. Các em chưa có khả năng phân tích sâu về nghệ thuật nhưng lại có trực giác thẩm mỹ rất mạnh, dễ cảm nhận và ghi nhớ những hình tượng nghệ thuật tác động trực tiếp đến xúc cảm.

Chính vì vậy, hoạt động Mĩ thuật nói chung và thưởng thức nghệ thuật nói riêng cần được tổ chức sao cho phù hợp với đặc điểm tâm lý và ngôn ngữ của trẻ. Thông qua việc quan sát, trò chuyện, đóng vai, nghe nhạc hoặc kể chuyện kết hợp với tranh, học sinh dần học cách thể hiện cảm xúc, phát triển khả năng ngôn ngữ và năng lực biểu đạt cá nhân.

2.2. Cơ sở lí luận của việc bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ qua môn Mĩ thuật

Theo mô hình Mĩ thuật Đan Mạch, giáo dục nghệ thuật hướng đến ba trụ cột: cảm thụ – sáng tạo – chia sẻ nhấn mạnh việc trao quyền cho học sinh được nói lên quan điểm cá nhân.

T11 2025 Xoan 25 11 3

Hình 3. Minh họa ba trụ cột của mô hình Mĩ thuật Đan Mạch: cảm thụ – sáng tạo – chia sẻ

Trong đó, hoạt động cảm thụ nghệ thuật được xem như điểm khởi đầu của quá trình sáng tạo. Khi học sinh được trải nghiệm và đối thoại với tác phẩm bằng cảm xúc, suy nghĩ và tưởng tượng của chính mình, các em sẽ tự hình thành mối liên hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

Tư tưởng này cũng tương đồng với quan điểm của Đinh Gia Lê, người cho rằng giáo dục thẩm mỹ phải bắt đầu từ cảm xúc chân thật. Mĩ thuật là con đường đi vào tâm hồn trẻ em – nơi cảm xúc được hình thành, nuôi dưỡng và phát triển thành nhân cách.

Bên cạnh đó, Chương trình GDPT 2018 xác định rõ: “Giáo dục mĩ thuật nhằm hình thành và phát triển năng lực thẩm mỹ, giúp học sinh nhận biết, cảm thụ và thể hiện cái đẹp trong nghệ thuật và trong cuộc sống.” Mục tiêu này đặt cảm xúc và trải nghiệm thẩm mỹ ở vị trí trung tâm của quá trình học tập.

Như vậy, hoạt động Mĩ thuật không chỉ rèn kỹ năng vẽ, tô màu hay tạo hình, mà còn là môi trường để học sinh rèn luyện xúc cảm thẩm mỹ, bồi dưỡng tâm hồn nhân ái và óc sáng tạo – những phẩm chất cốt lõi của con người hiện đại.

2.3. Giải pháp bồi dưỡng tâm hồn và cảm xúc thẩm mỹ cho học sinh tiểu học qua môn Mĩ thuật

2.3.1. Tạo không gian nghệ thuật giàu cảm xúc trong lớp học

Giờ học Mĩ thuật nên được tổ chức như một “không gian nghệ thuật thu nhỏ”, nơi học sinh có thể tự do cảm nhận, chia sẻ và sáng tạo. Giáo viên có thể sử dụng âm nhạc nhẹ nhàng, ánh sáng phù hợp, tranh ảnh phong phú để khơi dậy cảm xúc ban đầu.

Ví dụ: Khi giới thiệu tranh “Thiếu nữ bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân, giáo viên có thể mở một bản nhạc du dương, hỏi học sinh: “Các con có thấy ánh sáng trong bức tranh giống ánh sáng buổi sáng ở nhà mình không?” – những câu hỏi gợi cảm xúc sẽ giúp các em dễ hòa mình vào tác phẩm.

2.3.2. Khuyến khích học sinh bộc lộ cảm xúc cá nhân

Giáo viên nên đặt các câu hỏi mở để học sinh chia sẻ cảm nhận thật: “Con thấy gì trong bức tranh?”, “Chi tiết nào khiến con thích nhất?”, “Nếu con được vẽ lại, con sẽ thay đổi gì?

Qua quá trình nói – nghe – phản hồi, học sinh không chỉ phát triển khả năng biểu đạt mà còn học cách tôn trọng cảm xúc của người khác, hiểu rằng cái đẹp có thể được cảm nhận từ nhiều góc nhìn khác nhau.

2.3.3. Tổ chức hoạt động trải nghiệm, trao đổi và chia sẻ

Các hình thức như “phòng tranh mini”, “người thuyết minh tranh”, “ngày hội Mĩ thuật” hay “góc nghệ thuật trong lớp” giúp học sinh thể hiện bản thân và cảm nhận cái đẹp thông qua sự tương tác.

T11 2025 Xoan 25 11 4

Hình 4. Hoạt động “phòng tranh mini” trong lớp học – giúp học sinh chia sẻ cảm nhận và phát triển năng lực thẩm mỹ

Bên cạnh đó, việc tham quan bảo tàng, triển lãm hoặc bảo tàng ảo sẽ mở rộng không gian thưởng thức, kết nối nghệ thuật học đường với đời sống thực tế.

2.3.4. Phát huy vai trò của giáo viên như người dẫn dắt cảm xúc

Giáo viên Mĩ thuật không chỉ là người dạy kỹ năng mà còn là “người gieo hạt cảm xúc”. Thái độ yêu nghề, giọng nói, cách dẫn chuyện và sự đồng cảm của giáo viên có ảnh hưởng lớn đến tâm thế của học sinh. Khi giáo viên thực sự rung cảm trước cái đẹp, học sinh cũng sẽ được truyền cảm hứng để yêu nghệ thuật và cuộc sống.

2.3.5. Ứng dụng công nghệ và phương tiện hiện đại

Công nghệ số mở ra cơ hội mới trong việc thưởng thức nghệ thuật. Học sinh có thể khám phá bảo tàng ảo, xem video nghệ thuật 3D, hoặc sử dụng ứng dụng tạo tranh AI để trải nghiệm cảm giác “người sáng tạo”. Khi kết hợp giữa công nghệ và cảm xúc, việc dạy học Mĩ thuật trở nên hấp dẫn, gần gũi và phù hợp với trẻ em thời đại số.

3. KẾT LUẬN

Môn Mĩ thuật ở tiểu học không chỉ dạy trẻ vẽ hay tô màu, mà còn mở ra cánh cửa đi vào thế giới tâm hồn. Qua mỗi giờ học, các em được sống trong không gian của cái đẹp, học cách rung động, biết yêu thương và biết cảm thông. Khi được tổ chức đúng tinh thần trải nghiệm – cảm xúc – chia sẻ, Mĩ thuật trở thành phương tiện giáo dục nhân cách bền vững.

Giáo dục thẩm mỹ qua Mĩ thuật chính là con đường giúp học sinh hình thành nhân cách văn hóa, biết cảm thụ, sáng tạo và sống đẹp. Đó cũng là mục tiêu nhân văn sâu sắc mà Chương trình GDPT 2018 hướng tới – xây dựng thế hệ công dân không chỉ giỏi tri thức mà còn giàu tâm hồn, biết trân trọng và kiến tạo cái đẹp cho cuộc sống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Chương trình Giáo dục phổ thông – Mĩ thuật. NXB Giáo dục Việt Nam.

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2020). Tập huấn dạy học Mĩ thuật theo Chương trình GDPT 2018. NXB Giáo dục Việt Nam.

[3] Đinh Gia Lê. (2015). Giáo dục Thẩm mỹ và Nghệ thuật trong nhà trường. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

[4] Lê Thị Hải Yến (2021). Mô hình Mĩ thuật Đan Mạch: Những ứng dụng vào giáo dục Mĩ thuật Việt Nam. Tạp chí Khoa học Giáo dục.

[5] Phạm Thị Lan. (2020). Tổ chức hoạt động thưởng thức mĩ thuật cho học sinh tiểu học. Tạp chí Giáo dục.

[6] Nguyễn Thị Nhung. (2021). Vận dụng mô hình Mỹ thuật Đan Mạch trong dạy học ở tiểu học. Tạp chí Khoa học Giáo dục.

Trần Đăng Khoa sinh ngày 26/4/1958 trong một gia đình nông dân tại thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (cũ). Với khát vọng “Em suốt đời làm thơ”, Trần Đăng Khoa đã đóng góp cho nền văn học nói chung, nền văn học thiếu nhi nói riêng nhiều bài thơ đặc sắc. “Trăng sáng sân nhà em” là một trong những bài thơ đầu tay của Trần Đăng Khoa, được viết năm 1966.  Lúc làm bài thơ này, nhà thơ chỉ mới 8 tuổi, là một cậu học trò nhỏ xíu nhưng đã được coi là một thần đồng về thơ. Bằng những “nét vẽ có thần, bài thơ “Trăng sáng sân nhà em” hiện ra như một bức tranh làng quê lung linh và huyền diệu.

Suốt cả tuổi thơ của mình, Khoa luôn gắn bó với quê hương, đồng ruộng, với góc sân và mảnh vườn. “Từ góc sân nhà em”, Khoa đã nhìn, đã ngắm và đã đưa vào thơ những hình ảnh hết sức quen thuộc, thân thương của làng quê Việt nam. Đó là hình ảnh về mảnh sân, ánh trăng, hàng chuối, hàng cau, con chim, con sâu... Tất cả hòa quện vào nhau tạo nên một vẻ đẹp rất riêng của nông thôn Việt Nam.

T11 C Yen 4 11 1

Ai sinh ra và lớn lên ở thôn quê mới hiểu hết được giá trị của cái sân đối với người nhà nông. Ở nông thôn, cái sân là hình ảnh hết sức quen thuộc và gắn bó với mọi người. Đối với người nhà nông, sân là nơi phơi thóc và tối đến có thể ngồi ăn cơm, uống nước, rồi tiếp khách,... Đối với trẻ con, sân là cả một thế giới, một vũ trụ đầy những bí mật. Còn đối với Trần Đăng Khoa, cái sân có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là nơi ghi dấu bao nhiêu kỉ niệm về quê hương, về tuổi thơ, là nơi khơi gợi niềm cảm hứng và tứ thơ cho anh. Không phải ngẫu nhiên mà tập thơ đầu tay của Khoa lại có tên “Từ góc sân nhà em”, rồi “Góc sân và khoảng trời”. Trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời” đã có hơn chục bài thơ Khoa viết về cái sân:

“ Góc sân nho nhỏ mới xây

Chiều chiều em đứng nơi này em trông

Thấy trời biển biếc mênh mông

Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy”

(Góc sân và khoảng trời)

Hay

“ Em thường rải cái nong

Ra giữa sân ngồi học

Những đêm có trăng mọc

Em chơi cho đến khuya…”

(Cái sân)

Và trong bài thơ này, hình ảnh cái sân thấm đẫm ánh trăng được lặp đi lặp lại nhiều lần qua tiếng reo của cậu bé Khoa:

“Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em…”

Bằng cách sử dụng hai từ đồng nghĩa “tỏ” và “rõ” ở hai câu thơ đi liền nhau, độ sáng của vầng trăng như được nhân lên và mặc sức lan tỏa. Trăng sáng đến mức cái sân như được rọi chiếu từ mọi góc, mọi phía và hiện rõ lên mồn một dưới ánh trăng.

Tuy vậy, ở bài thơ này, cái sân chưa phải là hình ảnh trung tâm mà nó chỉ là điểm tựa, là góc nhìn, là nơi gợi niềm cảm xúc để nhà thơ tí hon ngắm trăng và miêu tả về trăng. Ai đã từng sống ở nông thôn trong những năm tháng chưa có ánh sáng của điện, phải trải qua những đêm trời tối đen như mực mới thấy hết được giá trị và vẻ đẹp của vầng trăng, trăng được ví như “người khách đặc biệt” của thôn quê. Cũng chính vì thế hình ảnh vầng trăng xuất hiện rất nhiều trong thơ Khoa. Trăng gần gũi với Khoa đến mức cậu có thể nghe được tiếng thở của nó - “Nghe trăng thở động tàu dừa”, rồi nửa đêm tỉnh dậy, Khoa lại thấy “Loáng vỡ ánh trăng vàng” và đã có lúc, cậu ngẩn ngơ, thắc mắc hoài “Trăng ơi… từ đâu đến ?”, sao  “Trăng  hồng như quả chín”, “trăng tròn như mắt cá”,…Có lẽ chỉ có trẻ em ở nông thôn mới có cơ hội cảm nhận được nét đẹp tinh nguyên, trong trẻo của đất trời, của cảnh vật vào những đêm trăng sáng, điều mà trẻ em ở thành phố khó có cơ hội để thưởng thức.

Chờ trăng, ngắm trăng dường như đã trở thành cái thú của cậu bé Khoa. Cũng chính vì vậy, bài thơ mặc dầu không trực tiếp miêu tả về người ngắm trăng, nhưng khi đọc kĩ các câu thơ, chúng ta lại cảm nhận rất rõ cái rạo rực, hân hoan của người ngắm trăng qua lời nhận xét:

"Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn.

Cái rạo rực, hân hoan của người ngắm trăng dường như đã lan nhanh sang cảnh vật:

“Hàng cây cau lặng đứng

Hàng cây chuối đứng im

Con chim quên không kêu

Con sâu quên không kêu”

Mọi vật dường như cũng ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của vầng trăng: cây cau -  lặng đứng, cây chuối - đứng im, con chim - không kêu, con sâu - không kêu. Mọi vật như chìm đi cho sự thức dậy của trăng và chỉ có trăng thôi. Trăng thống soái, ngự trị và cuốn hút toàn cảnh vật. Trời càng về khuya, trăng càng sáng, mọi vật như lặng đi trước vẻ đẹp huyền diệu của trăng.                                                                                                                           

Cái tài của Trần Đăng Khoa là ở chỗ không đi vào miêu tả trực tiếp trăng đẹp như thế nào, huyền diệu ra sao, mà vẻ đẹp của ánh trăng được lột tả qua sự chiêm ngưỡng của hàng cau, hàng chuối, con chim, con sâu,… Không phải ngẫu nhiên, trong muôn vàn các con vật, Trần Đăng Khoa lại chọn con chim và con sâu, mà theo tác giả cho biết, là vì: “Chim ở trên trời, sâu ở dưới đất. Cả trời đất đều tĩnh lặng, tự quên mình, đến nỗi có cảm giác tất cả tan biến đi, chỉ còn trăng thôi”. Cái biệt tài của Trần Đăng Khoa còn là ở chỗ chỉ bốn câu thơ, với một số lượng từ ít ỏi, được viết bằng nghệ thuật lặp cấu trúc, lặp ý tài tình, Trần Đăng Khoa đã diễn tả được sức hút mãnh liệt từ vẻ đẹp của vầng trăng. Bốn câu thơ trên suy cho cùng đều diễn tả: mọi vật đều ngừng hoạt động để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của vầng trăng. Phải là một con người có tâm hồn nhảy cảm, có óc quan sát tinh tế và đặc biệt phải là người có tình yêu đối với thiên nhiên, cảnh vật sâu sắc, Trần Đăng Khoa mới có thể miêu tả trăng đẹp đến như vậy.

Với nghệ thuật lặp cấu trúc, lặp từ ngữ, bài thơ đã có được âm hưởng và giai điệu của một bài đồng dao dễ thuộc, dễ đi vào lòng trẻ thơ:

Ông trăng tròn sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em…

Hàng cây cau lặng đứng

Hàng cây chuối đứng im

Con chim quên không kêu

Con sâu quên không kêu

Chỉ có trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em

Trăng khuya sáng hơn đèn

Ơi ông trăng sáng tỏ

Soi rõ sân nhà em…

Có thể nói “Trăng sáng sân nhà em” là một bài thơ ca ngợi vẻ đẹp thôn quê bằng những “nét vẽ” có thần. Bài thơ thể hiện dưới một dạng kết cấu lặp đặc sắc, như một bài đồng dao dễ hiểu, dễ thuộc; đồng thời nó cũng ẩn chưa khả năng rung động và quan sát nhạy cảm, tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình Văn học trẻ em, NXB ĐHSP.

[2]. Vũ  Dương Thụy (tổng biên tập) (2002), Thơ chọn với lời bình. Nhà XB GD

a. Đặt vấn đề

Thực tế giảng dạy nhiều năm ở bậc trung học phổ thông, tôi nhận thấy học sinh gặp khá nhiều khó khăn khi học một số kiến thức ở những chương đầu của hóa học lớp 10. Một phần có lẽ vì mới bước vào một cấp học mới, phần khác là kiến thức của các chương về cấu tạo nguyên tử, bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học là mảng kiến thức trừu tượng, học sinh khó hình dung. Vì vậy, việc phân tích những lỗi sai các em thường gặp phải và sửa chữa những sai lầm đó là việc rất quan trọng, giúp học sinh nắm vững kiến thức của những chương đầu của lớp 10, tạo nền tảng tốt cho việc học tập môn Hóa học từ đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Hóa học ở trường phổ thông.

b. Nội dung

1. Dạng bài tập viết cấu hình electron nguyên tử, ion

a. Viết cấu hình electron của nguyên tử

Đối với dạng bài tập này học sinh thường quên cách viết cấu hình electron của electron của các nguyên tử nguyên tố nhóm B. Cách viết đúng là:

       Bước 1: Điền electron theo thứ tự mức năng lượng:

               1s2s2p3s3p4s3d4p…

       Bước 2: Sắp xếp lại cấu hình electron theo thứ tự lớp:

               1s2s2p3s3p3d4s4p...

       Ví dụ 1: Viết cấu hình electron nguyên tử Fe (Z = 26):

              Cấu hình electron sai: 1s22s22p63s23p64s23d6

    Cấu hình electron đúng: 1s22s22p63s23p63d64s2

      Chú ý: 24Cr: 1s22s22p63s23p63d54s1

               29Cu: 1s22s22p63s23p63d104s1

b. Viết cấu hình electron của ion từ cấu hình electron của nguyên tử tạo ion đó

Sai : Bớt electron lần lượt từ mức năng lượng cao xuống năng lượng thấp.

Đúng: Bớt electron lần lượt từ phân lớp ngoài cùng vào các phân lớp bên trong.

            Ví dụ 2:  + Viết cấu hình electron của ion Fe2+:

Sai: Bớt 2 electron ở phân lớp 3d6: 1s22s22p63s23p63d44s2

Đúng: Bớt 2 electron ở phân lớp 4s2: 1s22s22p63s23p63d6

             + Cấu hình electron của ion Fe3+:

            Sai: Bớt 2 electron ở phân lớp 3d6: 1s22s22p63s23p63d34s2

             Đúng: Bớt 2 electron ở phân lớp 4s2, 1 eletron ở phân lớp 3d6

                          → 1s22s22p63s23p63d5

Ví dụ 3: Một ion M3+ có tổng số hạt proton, neutron, electron là 79, trong đó số hạt mang điện nhiều hơn số hạt không mang điện là 19. Cấu hình electron của nguyên tử M là:

  1. [Ar]3d54s1 B. [Ar]3d64s2                C. [Ar]4s23d6                D. [Ar]3d8

     Lỗi sai học sinh thường gặp:

1. Nhầm lẫn số electron của ion M3+ bằng số electron của nguyên tử M, dẫn đến lập hệ phương trình:

T5 c QUyen 22 5 1

2. Viết thứ tự năng lượng sau đó không viết lại cấu hình electron theo thứ tự lớp → cấu hình electron : [Ar]4s23d6 → Chọn C ( sai)

3. Vi phạm việc sắp xếp electron theo thứ tự năng lượng: 3d có mức năng lượng thấp hơn 4s → điền electron vào 3d trước → Cấu hình electron: [Ar]3d8 → Chọn D(sai)

            Hướng dẫn giải:

     Ion M3+ có: Tổng số hạt p, n, e là 79 → p+ n + (e− 3) = 79

     Số hạt mang điện nhiều hơn số hạt không mang điện là 19 p + (e − 3) – n =19

T5 c QUyen 22 5 2

Cấu hình electron của M là [Ar]3d64s2

        → Đáp án B.

2. Dạng bài tập về hóa trị của nguyên tố

            Học sinh thường bị nhầm lẫn trong việc lập công thức hóa trị cao nhất của nguyên tố với oxygen, hydrogen; Không biết mối liên hệ: hóa trị cao nhất của nguyên tố trong oxit + hóa trị của nguyên tố đó trong trường hợp chất khí với hydrogen  = 8.

    Nguyên tố M thuộc nhóm xA thì:

  1. Công thức hợp chất khí với H là: MH8-x ( x = 4 → 7)
  2. Công thức oxit cao nhất là: M2Ox ( x = 1 → 7)

Ví dụ 1: Nguyên tử của nguyên tố X có cấu hình electron lớp ngoài cùng là ns2np4. Trong hợp chất khí của nguyên tố X với hydrogen, X chiếm 94,12% khối lượng. Phần trăm khối lượng của nguyên tố X trong oxide cao nhât là:

  1. 50% B. 25%                          C. 60%                          D. 40%

     Lỗi sai học sinh thường gặp:

T5 c QUyen 22 5 3

     → Đáp án D.

Ví dụ 2: Công thức phân tử của hợp chất khí tạo bởi nguyên tố R và hydrogen là RH3. Trong oxide mà R có hóa trị cao nhất thì oxygen chiếm 74,07% về khối lượng. Nguyên tố R là:

  1. S                         B. As                             C. N                              D. P

     Lỗi sai học sinh thường gặp:

T5 c QUyen 22 5 4

T5 c QUyen 22 5 53. Dạng bài tập tìm nguyên tố ở nhóm, chu kì kế tiếp

 Học sinh cần nắm vững lý thuyết:

+ Sự chênh lệch số proton trong nguyên tử của X,

+  X và Y là hai nguyên tố thuộc cùng một chu kì, hai nhóm A liên tiếp

 * Trường hợp 1: X, Y thuộc cùng một chu kì nhỏ 1, 2, 3: Py – Px =1

* Trường hợp 2: X, Y thuộc cùng một chu kì lớn 4, 5, 6, 7: Py – Px =11

+ Hai nguyên tố cùng nhóm A, thuộc hai chu kì kế tiếp

  * Trường hợp 1: X thuộc cùng một chu kì nhỏ 1, 2: Py – Px =8

 * Trường hợp 2: X, Y thuộc cùng một chu kì lớn 3, 4: Py – Px =18

Nhầm lẫn: Học sinh thường bỏ quên trường hợp thứ hai ở cả 2 dạng bài tập trên

Ví dụ 1: Hai nguyên tố X và Y cùng thuộc một chu kì trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, X thuộc nhóm IIA, Y thuộc nhóm IIIA, (Zx + Zy = 51). Phát biểu nào sau đây đúng

  1. Kim loại X không khử được Cu2+ trong dung dịch.
  2. Hợp chất oxide của X có dạng X2­­O7.
  3. Trong nguyên tử nguyên tố X có 25 proton.
  4. Ở nhiệt độ thường X không khử được H2O.

     Lỗi sai học sinh thường gặp:

  1. Nếu chỉ xét trường hợp 1 thì X là Mn, Y là Fe → Hợp chất với oxygen của X có dạng X2O7 → Chọn B
  2. Nếu chỉ xét trường hợp 1 thì Px = 25 → Chọn C
  3. Nếu chỉ xét trường hợp 1 thì : X là Mn (là kim loại hoạt động trung bình)

     X không khử được nước  → Chọn D

     Hướng dẫn giải

     TH1: Nếu X, Y thuộc chu kì 2, 3

T5 c QUyen 22 5 6

→ Ca không khử được ion Cu2+ trong dung dịch.

     → Đáp án A

c. Kết luận

     Từ một số ví dụ đã nêu trên tôi nhận thấy sự nhầm lẫn, sai sót của học sinh chủ yếu do không nắm vững lí thuyết chương Nguyên tử và Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Việc chỉ ra những sai lầm đó giúp các em khắc sâu hơn lí thuyết  đã học từ đó vận dụng lí thuyết một cách linh hoạt để giải đúng, giải nhanh bài tập hóa học chương I, chương II hóa học lớp 10.

            TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Sách giáo khoa hóa học lớp 10.Bộ sách Cánh diều. NXB ĐH sư phạm.

[2]. Sách giáo khoa hóa học lớp 10. Bộ sách Kết nối tri thức và cuộc sống

[3]. Sách giáo khoa hóa học lớp 10. Bộ sách Chân trời sáng tạo.

[4]. Sách nâng cao hóa học 10, Nxb Giáo dục.

[5]. Đề thi THPT Quốc Gia.

Chuyển đổi số trong giáo dục là ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học, trong đó có việc dạy và học âm nhạc trong các trường THCS, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong dạy học môn Âm nhạc ở THCS trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2030 của giáo dục Việt Nam là phát triển toàn diện con người Việt Nam

Việc chuyển đổi số trong dạy và học môn Âm nhạc ở các trường THCS gắn bó mật thiết với điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy học, ứng dụng chuyển đổi số là công nghệ và Internet. Hiện nay ở các trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh, việc ứng dụng công nghệ trong chuyển đổi phương pháp dạy môn Âm nhạc dựa trên công nghệ và Internet đã được thực hiện nhằm thích ứng kịp thời với quá trình chuyển đổi số trong phương pháp dạy và học.

Sử dụng video bài hát, hoạt động tương tác, Giáo viên dạy Âm nhạc các trường THCS trên địa bàn đã chủ động cập nhật, tập huấn CNTT khai thác, sử dụng Internet vào việc thiết kế các bài học giúp học sinh tiếp cận bài học một cách trực quan, sinh động và hứng thú hơn trong học tập. Việc ứng dụng công nghệ đã cung cấp cho học sinh những công cụ sáng tạo để khám phá và phát triển tài năng âm nhạc của mình. Các ứng dụng và phần mềm chỉnh sửa âm thanh và hình ảnh giúp các em tạo ra nhạc phẩm riêng, ghi âm giọng hát và chơi nhạc cụ. Điều này không chỉ tạo ra sự thú vị trong quá trình học mà còn khuyến khích học sinh thể hiện sự sáng tạo và tự tin.

Khai thác phần mềm soạn thảo nhạc. CNTT mở ra một tài nguyên rộng lớn đã hỗ trợ học sinh sáng tác, phối khí và biểu diễn âm nhạc. Công nghệ giúp các em truyền tải đam mê và tình yêu dành cho âm nhạc một cách sinh động. Bằng cách sử dụng các phần mềm, ứng dụng và trang web giáo dục âm nhạc, giáo viên có thể trình diễn và chia sẻ âm nhạc một cách độc đáo  với học sinh của mình. Hình ảnh, video và âm thanh sẽ giúp học sinh hiểu và cảm nhận âm nhạc một cách sâu sắc hơn.

Ứng dụng Internet học tập âm nhạc. Các ứng dụng của Internet đã cung cấp kho tàng bài hát, trò chơi và hoạt động học tập đa dạng. Công nghệ cho phép học sinh làm việc nhóm và chia sẻ công việc của mình dễ dàng hơn. Họ có thể cùng nhau tạo ra các bài hát, biểu diễn và thu âm bằng cách sử dụng các công cụ trực tuyến. Qua đó, các em học cách lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau, phát triển kỹ năng giao tiếp và hợp tác.

Tổ chức các hoạt động học tập trực tuyến. Từ đó giúp học sinh học tập mọi lúc mọi nơi. Âm nhạc trở nên sinh động và hấp dẫn hơn với các video bài hát, hình ảnh minh họa trực quan, các trò chơi tương tác. Công nghệ thông tin mở ra cánh cửa cho học sinh tiếp cận với âm nhạc từ khắp nơi trên thế giới. Các em có thể nghe và tìm hiểu về âm nhạc của các nền văn hóa khác nhau, khám phá các thể loại âm nhạc mới và tìm hiểu về các nhạc sĩ tài năng. Điều này giúp mở rộng văn hóa âm nhạc cho học sinh và khuyến khích sự đa dạng trong sáng tạo âm nhạc của họ.

Sáng tạo, phát triển âm nhạc qua ứng dụng mạng xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học âm nhạc mang lại nhiều lợi ích cho cả giáo viên và học sinh. Giáo viên có thể truyền tải kiến thức hiệu quả hơn, học sinh hứng thú và tích cực tham gia vào các hoạt động âm nhạc. Từ đó, giúp phát triển năng khiếu âm nhạc và khơi gợi niềm đam mê nghệ thuật cho các em ngay từ khi còn nhỏ. Qua việc truyền cảm hứng âm nhạc, khám phá tài năng, phát triển kỹ năng hợp tác và mở rộng phạm vi học tập, chúng ta đã tạo ra môi trường học tập thú vị và đa dạng cho các em.

Thực tế cho thấy, giáo viên nào nắm bắt, áp dụng công nghệ hiệu quả tốt, giúp học sinh phát triển năng lực Âm nhạc, có hướng đi phù hợp trong sự phát triển chung của xã hội.

Tuy nhiên quá trình chuyển đổi số cũng đặt ra  những thách thức, khó khăn đối với giáo viên hiện nay. Đó là năng lực, kỹ năng, trình độ của mỗi người, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin của một số giáo viên còn những hạn chế nhất định.

Vì vậy, quá trình tham gia chuyển đổi số của một số giáo viên, đã và đang gặp những khó khăn không nhỏ. Khi tiếp cận CNTT giáo viên vẫn còn lúng túng, chưa cập nhật được những thay đổi của CNTT cho các phần mềm Âm nhạc.

Ngoài ra, sự xuất hiện của nhiều phần mềm thông minh trong lĩnh vực âm nhạc, đã dẫn tới thực trạng phụ thuộc vào công nghệ, khiến người học trở nên lười biếng, chạy theo thị hiếu, không nỗ lực khai phá năng lực bản thân, muốn thành công nhanh, bỏ qua thực chất.

Quá trình chuyển đổi số là xu hướng tất yếu trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Nghiên cứu về quá trình chuyển đổi số vào phương pháp dạy học môn Âm nhạc ở các trường THCS tên địa bàn thành phố Hà Tĩnh. Ứng dụng chuyển đổi số vào dạy học đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở các trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Chương trình Giáo dục phổ thông mới; Bộ GD&ĐT (2018).
  • Nhiều tác giả. Âm nhạc và mĩ thuật 6, 7, 8, 9, Nhà xuất bản Giáo dục Việt
  • Kỷ yếu hội thảo. Đổi mới phương pháp dạy học âm nhạc trong các trường Phổ thông hiện nay, Khoa Nghệ thuật, (5/2017).
  • Lê Anh Tuấn (2010), Phương pháp dạy học âm nhạc ở Tiểu học và Trung học cơ sở, NXB Đại học Sư phạm.
  • Lê Anh Tuấn, Nguyễn Phúc Linh, (2016). Phương pháp tư duy tích cực và sáng tạo trong giáo dục âm nhạc, Nhà xuất bản Hồng Đức.

Tìm hiểu về cách thể hiện khái niệm số thập phân trong các bộ sách giáo khoa môn toán lớp 5 theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018

 INVESTIGATING THE PRESENTATION OF DECIMAL CONCEPTS IN 5TH-GRADE MATHEMATICS TEXTBOOKS UNDER THE 2018 GENERAL EDUCATION CURRICULUM

 Nguyễn Thị Minh Hưng

Lê Nguyễn Khánh Vy

Khoa Sư phạm- Trường Đại học Hà Tĩnh

Tóm tắt

Số thập phân là một khái niệm trong toán học, đóng vai trò quan trọng trong việc biểu diễn và thực hiện các phép toán với các giá trị không nguyên. Trong bài viết này chúng tôi đề cập đến cách tiếp cận khái niệm số thập phân và cách trình bày khái niệm số thập phân trong các bộ sách giáo khoa Toán lớp 5 theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

Từ khóa: Phân số thập phân, số thập phân, số hữu tỉ.

Abstract:Decimals is a fundamental mathematical concept, playing a crucial role in representing and performing operations with non-integer values. This article mentions a way to approach decimal concepts and how they are presented in 5th-grade Mathematics textbooks under Vietnam’s 2018 General Education Curriculum.

Keywords: Decimal fractions, decimal numbers, rational numbers

1. Đặt vấn đề

Ở mạch kiến thức Số và phép tính trong chương trình môn Toán ở tiểu học, số thập phân là nội dung tiếp nối sau nội dung về phân số. Số thập phân là một nội dung quan trọng, chiếm thời lượng lớn trong chương trình môn Toán lớp 5. Theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018 [3], nội dung về số thập phân trong chương trình lớp 5 bao gồm khái niệm số thập phân, so sánh số thập phân, làm tròn số thập phân, các phép tính với số thập phân và tỉ số, tỉ số phần trăm.

Có 5 bộ sách giáo khoa (SGK) môn Toán lớp 5 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt theo Quyết định số 4119/ QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 12 năm 2023 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo [1] và Quyết định số 392/QĐ- BGDĐT ngày 26 tháng 01 năm 2024 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo [2]. Trong các bộ sách này, cách tiếp cận khái niệm số thập phân không hoàn toàn giống nhau; có quan điểm xuất phát từ nhu cầu biểu diễn các số đo đại lượng, có quan điểm xuất phát từ phân số thập phân. Trong nội dung bài báo này, chúng tôi phân tích các quan điểm tiếp cận khái niệm số thập phân và sự thể hiện quan điểm đó trong một số bộ SGK  môn Toán lớp 5 theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Các cách định nghĩa khái niệm số thập phân

Khái niệm số thập phân được định nghĩa theo các cách sau:

T5 Hung1 11 5 1

T5 Hung1 11 5 2

2.2. Các cách tiếp cận khái niệm số thập phân trong các bộ SGK môn Toán lớp 5

Theo các Quyết định số 4119/ QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 12 năm 2023 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quyết định số 392/QĐ- BGDĐT ngày 26 tháng 01 năm 2024 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, môn Toán lớp 5 có năm bộ SGK được phê duyệt bao gồm: bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, bộ sách Chân trời sáng tạo, bộ sách Cánh Diều, bộ sách Bình Minh và bộ sách Cùng khám phá. Trong năm bộ sách này, khái niệm số thập phân được hình thành theo một số quan điểm đã trình bày trong mục 2.1.

Việc mở rộng hệ thống số từ số tự nhiên, phân số sang số thập phân được thực hiện nhằm giải quyết các nhu cầu thực tiễn và lý thuyết trong toán học. Số thập phân ra đời để biểu diễn các giá trị không thể biểu diễn chính xác bằng số tự nhiên, đồng thời hỗ trợ việc đo lường và tính toán chính xác hơn. Quá trình mở rộng này không chỉ giải quyết được các vấn đề thực tế như đo lường (ví dụ: đo chiều dài, cân nặng, tiền tệ, ...) mà còn giải quyết được nhu cầu nội tại của toán học, nhằm đảm bảo các phép tính (như phép chia) luôn có kết quả trong một tập hợp số khép kín, hoặc để biểu diễn các phân số với hình thức gọn hơn, dễ sử dụng hơn trong tính toán.

Trong năm bộ SGK đã được Bộ giáo dục và Đào tạo phê duyệt, việc hình thành khái  niệm số thập phân được trình bày xuất phát từ hai nhóm tình huống:

Nhóm thứ nhất: Dựa trên các phân số thập phân

Các bộ sách Cánh Diều, Chân trời sáng tạo, Bình Minh trình bày khái niệm số thập phân theo quan điểm là một cách viết khác của phân số thập phân.

Theo phương pháp này, nếu phân số nhỏ hơn 1, phần nguyên của số thập phân sẽ là 0, còn phần thập phân chính là tử số của phân số đó. Đối với các phân số lớn hơn 1, ta có thể chuyển phân số đó thành hỗn số có chứa phân số thập phân, trong đó phần nguyên của hỗn số chính là phần nguyên của số thập phân, còn phần thập phân sẽ tương ứng với tử số của phần phân số thập phân trong hỗn số đó.

T5 Hung1 11 5 3

Học sinh đã được định nghĩa phân số thập phân là các phân số có mẫu số là 10, 100, 1 000, ... Trong phần luyện tập, SGK đã đề cập đến cách chuyển một phân số thành phân số thập phân ở bài tập 3. Còn ở trò chơi “Ghép thẻ” trong bài tập 4, SGK lại đưa ra hoạt động ghép cặp các thẻ ghi phân số thập phân với các thẻ ghi hỗn số. Hoạt động này giúp học sinh củng cố được khái niệm phân số thập phân và hỗn số nhằm tạo tiền đề để hình thành khái niệm số thập phân ở Bài 13- “Số thập phân”.

T5 Hung1 11 5 4

Sau khi hình thành khái niệm số thập phân SGK giới thiệu cấu tạo số thập phân bao gồm phần nguyên và phần thập phân được phân cách bởi dấu phẩy. Những chữ số ở bên trái dấu phẩy thuộc về phần nguyên, những chữ số ở bên phải dấu phẩy thuộc về phần thập phân. Chẳng hạn số thập phân 0,3, bao gồm 0 là phần nguyên, 3 là phần thập phân (hàng phần mười). Trong các Bài 14, 15, 16 tiếp tục giới thiệu các phân số có phần nguyên đến hàng trăm, phần thập phân đến hàng phần nghìn.

Tương tự như ở bộ sách Cánh Diều, các bộ sách Chân trời sáng tạo và Bình Minh cũng giới thiệu khái niệm số thập phân theo quan điểm là một cách viết của phân số thập phân và bổ sung thêm là cách viết khác của hỗn số có chứa phân số thập phân.

T5 Hung1 11 5 5

T5 Hung1 11 5 6

Bài học giúp học sinh thấy rằng phân số thập phân, hỗn số có chứa phân số thập phân đều có thể viết thành số thập phân, số thập phân là cách viết gọn hơn của phân số thập phân, giúp biểu diễn trực quan hơn các phần nhỏ hơn của một đơn vị.

Ở cả ba bộ sách Cánh Diều, Chân trời sáng tạo và Bình Minh mặc dù quan điểm hình thành khái niệm số thập phân xuất phát từ phân số thập phân nhưng đều đề cập đến sự xuất hiện số thập phân trong việc chuyển đổi giữa các đơn vị đo lường của một phép đo đại lượng trong các nội dung luyện tập.

Tóm lại, cả ba bộ sách Cánh Diều, Chân trời sáng tạo và Bình Minh đều giới thiệu khái niệm số thập phân là một cách viết khác của phân số thập phân, của hỗn số có chứa phân số thập phân. Với cách tiếp cận này, học sinh đã được học về phân số, phân số thập phân, hỗn số do đó việc hình thành khái niệm số thập phân một cách khá tự nhiên, thuận lợi, dễ hiểu. Cách tiếp cận này giúp học sinh hiểu số thập phân không phải là một khái niệm xa lạ, mà xuất phát từ chính những phân số, hỗn số quen thuộc.

Nhóm thứ hai: Xuất phát từ việc biểu diễn các số đo đại lượng.

Theo cách này, số thập phân thể hiện sự chuyển đổi giữa các đơn vị đo có mối quan hệ gấp 10, 100, .. lần. Ví dụ, trong phép đo độ dài gồm các đơn vị như km, hm, dam, m, dm, cm, mm, hoặc trong phép đo khối lượng gồm tấn, tạ, yến, kg, hg, dag, g. Trong quá trình chuyển đổi giữa các đơn vị đo của cùng một đại lượng, nếu đổi từ đơn vị đo “lớn hơn” sang đơn vị đo “bé hơn” thì ta được một số tự nhiên nhưng nếu chuyển đổi ngược lại thì kết quả chính là một phân số thập phân và ta có thể viết phân số thập phân đó dưới một hình thức mới, đó chính là “Số thập phân”.

Các bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống và bộ sách Cùng khám phá đều giới thiệu khái niệm Số thập phân theo con đường này. Bên cạnh đó, cách tiếp cận này còn này nhấn mạnh việc số thập phân được hình thành từ nhu cầu đo lường chính xác các đại lượng (như chiều dài, khối lượng, …) từ đó thấy được tính ứng dụng của số thập phân trong đời sống.

SGK toán 5 tập 1- bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trong Bài 10 “Khái niệm số thập phân”,  xuất phát từ tình huống Việt đo được chiều cao của em Mi là 118cm và của Rô-bốt là 9dm, các bạn Nam, Việt, Mai muốn ghi chiều cao của em Mi và Rô-bốt theo đơn vị mét thì phải viết như thế nào? Rô-bốt gợi ý cách viết đúng là viết dưới dạng số thập phân. Từ đó gợi mở cho học sinh nhu cầu tìm hiểu số thập phân là gì?

T5 Hung1 11 5 7

Sau khi hình giới thiệu số thập phân thì SGK cũng trình bày “Mỗi số thập phân gồm hai phần: phần nguyên và phần thập phân, chúng được phân cách bởi dấu phẩy”.

Mặc dù hình thành số thập phân từ nhu cầu chuyển đổi giữa các đơn vị đo của cùng một đại lượng, tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng trước khi ghi các số đo đại lượng dưới dạng số thập phân thì các số đo đó được viết dưới dạng phân số thập phân hoặc hỗn số có chứa phân số thập phân. Trong bài tập 1 ở bài 10, sách Toán 5 tập 1- bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống đưa ra yêu cầu “Nêu số thập phân thích hợp với mỗi vạch của tia số” mà không có đơn vi đo cho học sinh nhận thấy rằng bản chất  số thập phân là một cách viết khác của phân số thập phân. Mỗi điểm cho trước trên tia số đều có thể biểu diễn được bằng hai cách đó là phân số thập phân hoặc số thập phân.

T5 Hung1 11 5 8

T5 Hung1 11 5 9

T5 Hung1 11 5 10

Cũng giống như ở bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, ở bộ sách Cùng khám phá đã hình thành số thập phân thông qua việc chuyển đổi từ đơn vị đo “nhỏ hơn” sang đơn vị đo “lớn hơn” trong một phép đo đại lượng, bằng bước chuyển trung gian là phân số thập phân hoặc là hỗn số có chứa phân số thập phân. Cách tiếp cận ở hai bộ sách này tương đối giống nhau.

Trong cả năm bộ SGK Toán 5 sau khi hình thành khái niệm ban đầu về số thập phân thì  đều trình bày cấu tạo thập phân của số theo các hàng. Cách xác định hàng ở số thập phân được tính bắt đầu từ dấu phẩy. Đối với phần nguyên, tính từ phải sang trái là hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, …, đối với phần thập phân tính từ trái sang phải là hàng phần mười, hàng phần trăm, hàng phần nghìn, …. Mỗi đơn vị của một hàng bằng 10 đơn vị của hàng thấp hơn liền sau; mỗi đơn vị của một hàng bằng 0,1 đơn vị của hàng cao hơn liền trước. Đây chính là cách định nghĩa số thập phân là một dạng ghi số trong hệ đếm thập phân.

3. Kết luận

Như vậy trong năm bộ SGK Toán lớp 5 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, có ba bộ sách hình thành khái niệm số thập phân trên cơ sở phân số thập phân là bộ sách Cánh Diều, bộ sách Chân trời sáng tạo và bộ sách Bình Minh. Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống và bộ sách Cùng khám phá hình thành khái niệm số thập phân thông qua việc chuyển đổi đơn vị đo lường của một phép đo đại lượng. Tuy nhiên ở cách tiếp cận thứ hai này thì cũng phải chuyển đổi các số đo đại lượng thành các phân số thập phân hoặc hỗn số có chứa phân số thập phân. Điều này cho chúng ta thấy bản chất cốt lõi của số thập phân chính là phân số thập phân. Đây là cách giới thiệu khái niệm số thập phân hoàn toàn phù hợp với nội dung và yêu cầu cần đạt của chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2023), Quyết định số 4119/ QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 12 năm 2023, Phê duyệt sách giáo khoa các môn học, hoạt động giáo dục lớp 5 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông.

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2024), Quyết định số 392/QĐ- BGDĐT ngày 26 tháng 01 năm 2024 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phê duyệt sách giáo khoa các môn học, hoạt động giáo dục lớp 5 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông.

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông môn Toán.

[4] Trần Nam Dũng (Tổng chủ biên), Khúc Thành Chính (Chủ biên), Đinh Thị Xuân Dung, Nguyễn Kính Đức, Đậu Thị Huế, Đinh Thị Kim Lan, Huỳnh Thị Kim Trang (2023), Toán 5 (tập 1) – Bộ sách Chân trời sáng tạo, Nxb Giáo dục Việt Nam.

[5] Trần Diên Hiển (Chủ biên), Nguyễn Đình Khuê, Đào Thái Lai, Nguyễn Thị Kiều Oanh, Phạm Thanh Tâm, Nguyễn Thúy Vân (2023), Toán 5 (tập 1)– Bộ sách Bình Minh, Nxb Đại học Vinh.

[6] Hà Huy Khoái (Tổng chủ biên), Lê Anh Vinh (Chủ biên), Nguyễn Áng, Vũ Văn Dương, Nguyễn Minh Hải, Hoàng Quế Hường, Bùi Bá Mạnh (2023), Toán 5 (tập 1) – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Nxb Giáo dục Việt Nam.

[7] Đỗ Đức Thái (Tổng chủ biên), Đỗ Tiến Đạt (Chủ biên), Nguyễn Hoài Anh, Trần Thuý Ngà, Nguyễn Thị Thanh Sơn (2023), Toán 5 (tập 1)– Bộ sách Cánh Diều, Nxb Đại học Sư phạm.

[8] Phan Doãn Thoại (Tổng chủ biên kiêm chủ biên), Nguyễn Phương Anh (2024), Toán 5 (tập 1) – Bộ sách Cùng khám phá, Nxb Đại học Huế.