foto1 foto2 foto3 foto4 foto5


+84 0393.885.127
khoasp@htu.edu.vn

Khoa Sư phạm

Trường Đại học Hà Tĩnh

Tóm tắt: Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên ở bậc phổ thông nói riêng, trong đó có đội ngũ giáo viên âm nhạc. Việc biên soạn và đặt hợp âm cho ca khúc thiếu nhi để ứng dụng vào nhạc cụ là một nội dung cần thiết và được coi là một trong những kĩ năng cơ bản của hoạt động đệm hát trên đàn phím điện tử dành cho đội ngũ giáo viên âm nhạc ở trường phổ thông.

Từ khóa: Âm nhạc, hợp âm, ca khúc thiếu nhi, giáo viên âm nhạc, trường phổ thông

Trong âm nhạc, hợp âm đóng một vai trò rất quan trọng, nó thường được dùng làm phần đệm cho giai điệu, ngoài ra nó còn có thể tạo nên giai điệu bằng các dạng âm hình hóa. Đặc biệt trong việc phối âm cho các bài hát, bản nhạc thì  hợp âm và mối liên kết giữa chúng càng thể hiện rõ nét tầm quan trọng của nó trong âm nhạc.

Trên thực tế tại các trường phổ thông hiện nay, việc biên soạn và vận dụng hợp âm của các giáo viên cũng như kĩ năng sử dụng nhạc cụ trong tiết học âm nhạc là rất hạn hữu, thậm chí nhiều trường không sử dụng đến nhạc cụ, hoặc nếu có sử dụng thì cũng chỉ đàn giai điệu bài hát mà thôi. Phương tiện chủ yếu để giảng dạy là đĩa nhạc, máy nghe nhạc…, một số tiết học có sử dụng công nghệ thông tin thì phần âm nhạc cũng được cài đặt sẵn trên máy tính. Xét về mặt tổng thể thì những cách thực hiện như trên rất tiện lợi cho giáo viên. Tuy nhiên, theo nhìn nhận ở góc độ chuyên môn, việc giáo viên không chọn cách đệm đàn trực tiếp tại lớp sẽ phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy, không tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến giáo viên không sử dụng nhạc cụ trực tiếp trong tiết dạy:

- Khả năng sử dụng nhạc cụ còn hạn chế

- Nhà trường chưa có phòng chức năng để dạy môn âm nhạc.

- Do có sẵn đĩa nhạc nền, máy nghe và việc tìm nhạc nền cho bài hát rất dễ dàng nên các giáo viên thích chọn phương án này thay cho việc đệm đàn trực tiếp tại lớp…

Trong các nguyên nhân nêu trên chúng tôi cho rằng cốt lõi của vấn đề là kỹ năng sử dụng nhạc cụ của các giáo viên âm nhạc còn hạn chế, thậm chí còn có những giáo viên chưa thành thạo cách sử dụng nhạc cụ.

Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi đưa ra giải pháp nhằm giải quyết phần nào việc đệm hát cho giáo viên âm nhạc ở trường phổ thông. Chúng tôi xin nêu ra phương pháp soạn hợp âm cơ bản cho ca khúc thiếu nhi như sau:

Thứ nhất: Phải chuẩn bị bài hát chính xác về giai điệu, lời ca, tên tác giả.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chọn bài hát: “Ngày đầu tiên đi học”, Nhạc: Nguyễn Ngọc Thiện, Lời: thơ Viễn Phương làm ví dụ.

Thứ hai: Xác định chính xác giọng của bài hát

Ở đây chúng tôi không đi sâu vào hướng dẫn cách xác định giọng của một tác phẩm âm nhạc mà chỉ đi vào cụ thể đối với bài hát: “Ngày đầu tiên đi học”

- Bài hát được viết ở hóa biểu không có dấu hóa, không xuất hiện dấu hóa bất thường trong suốt bài hát

T3 aQ 15 3 1

- Kết thúc bài hát ở nốt Đô, giai điệu luôn bình ổn ở âm thanh này

T3 aQ 15 3 2Như vậy chúng ta xác định bài hát được viết ở giọng Đô trưởng.

Trong quá trình xác định giọng chúng ta cần xem xét kỹ cách tiến hành giai điệu của bài hát để xác định giọng một cách chính xác, bởi vì có nhiều bài hát âm kết thúc không phải là âm chủ.

Thứ ba: Phân tích hình thức và cấu trúc âm nhạc của bài hát

Bài hát: “Ngày đầu tiên đi học” nhằm giáo dục lòng biết ơn đối với cha mẹ, tình yêu đối với thầy cô giáo…, được viết ở thể hai đoạn đơn, gồm bốn câu nhạc.

Đoạn a: Gồm hai câu nhạc

Câu 1: Gồm 8 ô nhịp (từ đầu bài đến “…mẹ dỗ dành yêu thương”) và kết thúc câu 1 ở bậc V (âm Son)

T3 aQ 15 3 3

Câu 2: Gồm 9 ô nhịp, (“Ngày đầu tiên đi học…” đến “…Ôi! sao thiết tha…”) và  kết thúc câu 2 ở bậc I ( âm Đô).

T3 aQ 15 3 4

Đoạn b: Gồm 2 câu nhạc

Câu 1: Gồm 8 ô nhịp, (“Ngày đầu như thế đó…” đến “…cô giáo là cô tiên”) , kết thúc câu 1 ở bậc V ( âm Son).

T3 aQ 15 3 5

Câu 2: Gồm 9 ô nhịp, (“Em bây giờ khôn lớn…” đến “...mẹ cô cùng vỗ về”.), kết thúc câu 2 và cũng là kết thúc bài ở bậc I ( âm Đô).

T3 aQ 15 3 6

Giai điệu được tiến hành ở nhịp độ vừa phải, với các quãng đồng âm, quãng 2, quãng 3, quãng 4, quãng 7, âm thanh chủ yếu xoay quanh trục của giọng, âm hình chủ đạo được thể hiện xuyên suốt trong bài hát, các bước nhảy được giải quyết một cách hợp lý tạo nên bức tranh về em bé ngày đầu tiên đến trường trong tâm trạng không vui với bao điều lạ lẫm.

Thứ tư: Đặt hợp âm cho ca khúc:

- Trước tiên chúng ta xây dựng các hợp âm ba của giọng trưởng bằng cách thiết lập vòng hòa thanh cơ bản trên điệu thức Đô trưởng:

T3 aQ 15 3 7

- Tiến hành đặt hợp âm:

+ Hợp âm được đặt ở phách mạnh hoặc phách mạnh vừa (nếu có), và âm của giai điệu là âm có trong hợp âm đó.

+ Hợp âm bắt đầu và hợp âm kết thúc thường là hợp âm chủ (T) của giọng, cũng có khi vào đầu bằng hợp âm át (D) hoặc hạ át (S) và cũng có khi kết thúc bằng hợp âm át hoặc hạ át (kết lững).

+ Với những bài hát có hình thức hai đoạn thì hợp âm vào đầu và hợp âm kết thúc của mỗi đoạn thường là hợp âm chủ (T), cũng có trường hợp vào đầu và kết đoạn một ở hợp âm át (S).

 Trích đoạn bài: Ngày đầu tiên đi học

                   Nhạc: Nguyễn Ngọc Thiện

                   Lời: thơ Viễn Phương

T3 aQ 15 3 8

Câu nhạc thứ nhất

+ Ô nhịp 1: Là ô nhịp lấy đà, chỉ có một phách yếu nên ta không đặt hợp âm.

+ Ô nhịp 2: Đặt hợp âm Đô trưởng (C), vì có nốt Son là âm ổn định của giọng, là âm V của hợp âm Đô trưởng, đồng thời đây là ô nhịp đầu tiên của bài hát.

+ Ô nhịp 3, 4, 5: Trong 3 ô nhịp này, ô nhịp thứ 3 chọn hợp âm Mi thứ (Em), ô nhịp thứ 4 chọn Pha trưởng (F) và ô nhịp thứ 5 chọn Son bảy (G7) nhằm tạo một chuỗi âm đi lên làm cho độ kịch tính được tăng dần rồi giải quyết về hợp âm chủ ở ô nhịp tiếp đó.

+ Ô nhịp 6: Chọn hợp âm Đô trưởng (C) nhằm giải quyết kịch tính của ô nhịp trước, đồng thời làm tiền đề cho vòng công năng mới.

+ Ô nhịp 7, 8, 9: Quan sát kĩ chúng ta thấy 4 ô nhịp trước (2, 3, 4, 5) với 4 ô nhịp sau (6, 7, 8, 9) ý nhạc như được lặp lại. Do đó, chúng ta có thể sử dụng lại vòng hòa thanh đó. Cụ thể là: Ô nhịp thứ 7 chọn hợp âm Mi thứ (Em), ô nhịp 8 chọn hợp âm Pha trưởng (F), ô nhịp 9 chọn hợp âm Son bảy (G7).

Câu nhạc thứ 2:

+ Ô nhịp 10, 11, 12, 13: Nét giai điệu của bốn ô nhịp này tái hiện nguyên dạng của 4 ô nhịp đầu (2, 3, 4, 5). Do đó, lấy vòng hòa thanh của 4 ô nhịp đầu để sử dụng lại cho 4 ô nhịp này. Cụ thể là: Ô nhịp 10 chọn Đô trưởng (C), ô nhịp 11 chọn Mi thứ (Em), ô nhịp 12 chọn Pha trưởng (F), ô nhịp 13 chọn Son bảy (G7).

+ Ô nhịp 14, 15, 16, 17: Đây là 4 ô nhịp cuối của đoạn nhạc, và vẫn sử dụng vòng hòa thanh T- S- D. Ô nhịp 14 chọn hợp âm Đô trưởng (C) nhằm giải quyết sự kịch tính của ô nhịp trước. Ô nhịp 15 chọn hợp âm La thứ (Am), vì hợp âm này thuộc nhóm công năng S. Ô nhịp 16 chọn hợp âm Son bảy (G7). Ô nhịp 17 là nốt Đô nằm ở phách mạnh và là âm I của hợp âm chủ (T) đồng thời là ô nhịp kết đoạn 1 nên chúng ta đặt hợp âm Đô trưởng (C) cho ô nhịp này.

Bằng cách lập luận và xác định hợp âm như trên, chúng ta có thể tiếp tục đặt hợp âm cho đoạn thứ 2. Sau khi đặt xong hợp âm, chúng ta nghe lại hợp âm trên đàn để điều chỉnh cho phù hợp.

Chúng ta biết rằng, khả năng thị phạm của giáo viên trước học sinh là rất quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực âm nhạc thì khả năng này cần phải đề cao.

Khi giáo viên sử dụng tốt nhạc cụ trong tiết học chắc chắn sẽ kích thích được sự hưng phấn cho các em và tiết học sẽ sôi nổi hơn nhiều. Chính từ điều này, chúng ta sẽ phát huy tối đa khả năng của học sinh, thu hút các em tham gia vào hoạt động học một cách tích cực hơn, dần hình thành tính tư duy độc lập, tự chủ trong học tập cho các em.

  TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Đào Ngọc Dung (2001). Phân tích tác phẩm âm nhạc, Nxb Giáo dục

[2]. Phạm Tú Hương (2005). Lý thuyết âm nhạc cơ bản, Nxb Đại học sư phạm

[3]. Cù Minh Nhật (2005). Organ thực hành, Nxb Âm nhạc

[4]. Phạm Tú Hương,Vũ Nhật Thăng (1993). Sách giáo khoa hòa thanh, Nxb Âm nhạc

Bỏ lại những sự xô bồ, ồn ã của những tháng ngày bộn bề công việc, lo toan, Tết mang đến một không khí thật tươi mới và đa sắc màu. Tết gói trọn những háo hức, hy vọng về một năm mới an lành, no đủ, vui vẻ, hạnh phúc tràn đầy.

T2 a loan 2 2 1

Tết bắt đầu với những phiên chợ tết. Phiên chợ tết kéo chúng ta về với những ký ức xa cũ, những phiên chợ quê đậm hương vị Tết cổ truyền. Dù xã hội đã hiện đại hoá, những khu chợ thành những trung tâm thương mại, siêu thị sầm uất, thế nhưng chợ Tết – một phần không thể thay thế trong cuộc sống và văn hóa người Việt.  Chợ Tết là một tấm vé để trở về tuổi thơ, về với những ký ức ngập tràn tiếng nói cười, âm thanh của tình làng nghĩa xóm, của niềm vui sum họp, của những ký ức đi chợ cùng bố mẹ, cùng ông bà. Các phiên chợ tết bắt đầu được mở từ sau ngày 23 tháng Chạp (ngày Ông Công, ông Táo) kéo dài đến chiều 30 Tết. Chợ tết xưa dù ở đâu cũng luôn mang một không khí rộn ràng, vui tươi, tấp nập. Vì vậy, những người mua kẻ bán ai cũng cởi mở hơn, mang nhiều ước vọng và việc dạo chợ tết còn mang đến niềm vui, háo hức một năm mới hanh thông. Người người trao nhau nụ cười, lời chào mời niềm nở, kéo mọi người xích lại gần nhau hơn.

T2 a loan 2 2 2

Những thập niên trước, khi kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn,  ngày Tết được xem là một ngày vô cùng thiêng liêng, trọng đại. Để chuẩn bị cho những ngày đầu xuân năm mới, ông bà, cha mẹ thường phải dành dụm, tích cóp cả năm trời để dành cho việc mua sắm Tết, thậm chí việc mua sắm tết còn được chuẩn bị trước rất sớm. Sau 15 tháng 12 có nhiều gia đình đã chuẩn bị đồ đạc để đón Tết. Trước 23 tháng Chạp, các bà các mẹ đã lo đi chợ sắm sửa thức ăn, và những thứ thiết yếu vì sợ đến ngày cận Tết giá cả sẽ tăng cao. Cũng từ đây các phiên chợ tết của tết xưa bắt đầu. Người ta mua sắm từ những ngày này cho đến tận 30 tết. Các công việc làm tết cũng từ đó mà trở nên nhiều hơn. Vì quan niệm ngày đầu năm không được mua sắm, không chi tiêu đến tiền bạc kẻo sợ dông, thậm chí có nhiều món đồ còn bị kiêng cữ đến hết tháng giêng. Nên việc mua sắm cái gì, mua bao nhiêu để đủ dùng là việc được tính toán rất kĩ lưỡng. Thậm chí nhiều người còn cầm sẵn giấy viết chi tiết những thứ cần mua để tránh mua thiếu sót, đầu năm như thế là không may. 

T2 a loan 2 2 3

Ngày nay, đi cùng với sự phát triển về kinh tế, chợ tết bắt đầu muộn hơn, ít náo nhiệt hơn. Trái với tết xưa, chợ tết nay bắt đầu có phần khá muộn, thường sau khoảng 23-25 tháng 12 âm mới có những phiên chợ Tết họp chợ. Phần vì do tính chất công việc, không có nhiều thời gian để đi sắm tết. Phần vì nguồn cung thực phẩm, hàng hóa tết hiện nay dồi dào, đầy đủ hơn, tâm lý sợ hết hàng cũng giảm bớt. Do thế nên người ta thường trì hoãn việc mua sắm tết. Thông thường các món hàng như quà cáp, đồ hiếm thì mới phải mua sớm để còn dễ dàng sắp xếp. Còn lại những thứ như nhu yếu phẩm, vật dụng trang trí tết, thậm chí là bánh mứt,… thì phải sau 25 – 26 Tết người ta mới mua. Cảnh tượng lo lắng chuẩn bị mua sắm cho tết trước cả tháng trời giờ đây gần như không còn xuất hiện nữa. 

Các mặt hàng giờ đây được sản xuất rất đa dạng, bao gồm vô vàn thể loại cho ta lựa chọn theo từng phân khúc: hàng nội địa, hàng nhập khẩu…. Song song với đó, sự bùng nổ một vài năm trở lại đây của ngành thương mại điện tử – mua sắm online cũng giúp ích rất nhiều trong việc mua sắm thay cho chợ tết truyền thống. Chỉ cần vài thao tác chọn đơn giản, sẽ có người mang đến tận nhà cho bạn. Chính vì sự tiện lợi ấy mà ngày nay càng có nhiều người quyết định dành thời gian cho công việc thay vì dành thời gian ra ngoài mua sắm. Điều này phần nào khiến chợ tết không còn sôi động như xưa. Niềm hào hứng mua sắm tết vơi dần. Ngày tết hiện đại dần dần không còn thiêng liêng như ý nghĩa ban đầu nó vốn có, đặc biệt là đối với giới trẻ. 

T2 a loan 2 2 4

Cuộc sống ngày càng có nhiều áp lực hơn đối với mọi người, mọi nhà. Điều này làm cho việc chuẩn bị tết cũng không còn quá trau chuốt, cầu kỳ. Người trẻ ngày nay đã bớt dần những khoản chi phí mà họ cảm thấy không cần thiết để mua sắm ở chợ tết. Thêm vào đó, ngày nay việc mua sắm thường ngày đã quá phổ biến. Trong năm, hầu như ai cũng mua đủ các món đồ mới cho mình và gia đình. Nên việc mua đồ mới cho ngày tết dần trở nên bình thường, không có sức hút như ngày xưa. Trẻ con bây giờ đã không còn xa lạ với đồ mới, bánh kẹo cũng luôn đủ đầy, lại ít khi tiếp xúc với không khí chợ tết. Đây cũng là điều dễ hiểu khiến trẻ con ngày nay không mặn mà với tết như trẻ con xưa. Mỗi thời đại đều có những ưu, khuyết điểm của nó. Và ngày tết cũng vậy, thời nào cũng có đặc trưng chợ tết riêng. 

Nhiều người cứ nói Tết nay “nhạt” lắm, chẳng còn háo hức và mong ngóng như xưa. Tết đến kéo theo cả núi việc phải làm, kéo theo cả những câu hỏi không muốn phải trả lời… có khiến bạn – một người trẻ sợ Tết? Điều gì đã xảy ra với bạn từ một đứa trẻ đếm từng ngày tới Tết cho tới phiên bản hiện tại? Cuối năm rồi, dành một khoảng lặng và xem Tết xưa – Tết nay đã thay đổi thế nào…Nhiều người cho rằng, phải chăng sự thiếu thốn, không được đủ đầy trong Tết xưa khiến người ta cảm thấy ấm lòng và nhung nhớ hơn giữa những sơn hào hải vị, của ngon vật lạ đầy đủ của Tết nay? Sự thay đổi của cuộc sống kéo theo sự thay đổi dòng chảy của văn hóa. Cuộc sống hiện đại nhiều áp lực căng thẳng và giới trẻ ngày nay cũng lựa chọn một lối sống hiện đại, mới mẻ – sống cho riêng mình nhiều hơn. Nhiều người cố tìm kiếm một cái Tết thảnh thơi, cố gắng “làm ngơ” trước những âu lo, bộn bề và bận rộn của ngày Tết. Ở góc độ thực tế hơn, một bộ phận không nhỏ người trẻ và người lao động ngày nay “sợ” Tết bởi gánh nặng mưu sinh đè lên vai, cùng với những thay đổi chóng mặt của thị trường.

Tuy có những đổi thay, nhưng Tết Nguyên Đán chưa bao giờ mất đi ý nghĩa vốn có, có chăng thời đại làm cho những ý nghĩa ấy biến đổi đi, ở một dạng thù hình khác. Dù cách đón Tết mỗi thời đại có khác nhau, nhưng mỗi người chúng ta đều hướng vọng về những ngày Tết là tình thân gia đình, có thể ở bên cạnh nhau, đoàn tụ sau một năm dài xa cách, quây quần cùng đón khoảnh khắc sang năm mới, đó là điều ý nghĩa nhất và cũng là những ký ức không bao giờ mờ phai trong tâm thức của mỗi người con đất Việt.

Tóm tắt

Phát triển đội ngũ giáo viên là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của nâng cao chất lượng giáo dục. Từ việc nghiên cứu nội dung công tác phát triển đội ngũ giảng viên, bài báo tập trung đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phát triển đội ngũ giáo viên, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.

Từ khóa: chất lượng công tác phát triển đội ngũ giáo viên

  1. Vai trò của công tác phát triển đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục

Nâng cao chất lượng trong giáo dục luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhiều đối tượng  dù tham gia hoặc không tham gia vào quá trình giáo dục.Nâng cao chất lượngcông tác phát triển đội ngũ giáo viên từ lâu đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Qua các công trình nghiên cứu của họ, thấy một điểm chung, đó là: Khẳng định vai trò quan trọng của công tác phát triển đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.

“Thuật ngữ chất l­ượng"  phản ánh thuộc tính đặc trư­ng, giá trị, bản chất của sự vật và tạo nên sự khác biệt (về chất) giữa sự vật này và sự vật khác. Theo quan điểm triết học, chất lư­ợng hay sự biến đổi về chất là kết quả của quá trình tích luỹ về l­ượng (quá trình tích luỹ, biến đổi) tạo nên những bước nhảy vọt về chất của sự vật hiện tượng”.

            Chất lượng giáo dục: Từ trước tới nay cụm từ này đã được đề cập rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong hoạt động chuyên môn của ngành giáo dục và cũng gây tranh cãi nhiều trong dư luận - xã hội. Thế nhưng, hiện nay chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh.

Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Đản (Trường đại học Sư phạm Hà Nội), chất lượng giáo dục là những lợi ích, giá trị mà kết quả học tập đem lại cho cá nhân và xã hội, trước mắt và lâu dài. Khái niệm trên được đúc kết từ nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ quản lý chất lượng, thì chất lượng giáo dục là học sinh vừa cần phải nắm được các kiến thức kỹ năng, phương pháp chuẩn mực thái độ sau một quá trình học; đáp ứng được các yêu cầu khi lên lớp, chuyển cấp, vào học nghề hay đi vào cuộc sống lao động...

Còn với góc độ giáo dục học thì chất lượng giáo dục được giới hạn trong phạm vi đánh giá sự phát triển của cá nhân sau quá trình học tập và sự phát triển xã hội khi họ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế sản xuất, chính trị - xã hội, văn hóa - thể thao.

Tuy nhiên, để đánh giá chất lượng giáo dục, người ta thường tập trung vào một số tiêu chí, chỉ số cơ bản của chất lượng giáo dục đó là: Đầu tư ngân sách cho giáo dục, tỷ lệ nhập học trong độ tuổi, tỷ lệ lưu ban, bỏ học; tỷ lệ hoàn thành cấp học; thời lượng học tập của học sinh, tình trạng đội ngũ giáo viên, đạo đức của người học, mức độ nhận thức, kỹ năng và thể lực của người học và tình trạng người học tốt nghiệp có việc làm và đáp ứng yêu cầu của công việc.

Qua nghiên cứu về chất lượng giáo dục trung học chuyên nghiệp, PGS.TS Nguyễn Đức Trí (Viện Chiến lược và chương trình giáo dục) đã có quan niệm rằng, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng đầu vào, đầu ra (sản phẩm của giáo dục); "giá trị gia tăng" (sự tăng trưởng trong phát triển trí tuệ và nhân cách người học); giá trị học thuật - tri thức (đội ngũ giáo viên của trường có chất lượng, có uy tín thì trường được xem là có chất lượng)...

     Giáo viên là yếu tố hàng đầu nâng cao chất lượng giáo dục

Người giáo viên có vai trò quyết định đối với quá trình dạy và học, một lực lượng có “chức năng đặc biệt” chi phối và định hướng cho nguồn nhân lực tương lai của đất nước. Giáo viên, thông qua các hoạt động giảng dạy và giáo dục góp phần cung cấp những kiến thức cơ bản cần thiết cho học sinh. Đồng thời, cũng chính giáo viên là người có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình hình thành nhân cách thế hệ trẻ. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng công tác phát triển đội ngũ giáo viên là một yêu cấp thiết nhằm đáp ứng sự nghiệp đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.

 Chất lượng công tác phát triển đội ngũ giáo viên luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của bất kỳ hệ thốnggiáo dục nào. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì không thể không nâng cao chất lượng công tácphát triển đội ngũ giáo viên

Để nâng cao chất lượng giáo dục, theo TS Nguyễn Anh Dũng (Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục) thì cần phải tiến hành đổi mới chương trình giáo dục va phát triển đội ngũ giáo viên. Đồng thời ưu tiên giải quyết đồng bộ các khâu đào tạo bồi dưỡng sử dụng đãi ngộ và kiểm tra đánh giá đội ngũ giáo viên. Thứ hai là phải đẩy mạnh quản lý giáo dục, trong đó phải đẩy mạnh phân cấp quản lý, xây dựng và thực hiện chuẩn giáo dục, tăng cường thanh tra chuyên môn và đầu tư nguồn lực cơ sở vật chất.

Qua nghiên cứu thực trạng chất lượng giáo viên, nhóm nghiên cứu gồm các đồng chí PGS.TS Nguyễn Ngọc Hợi; PGS.TS Phạm Minh Hùng và TS Thái Văn Thành (Đại học Vinh) cũng cho rằng, muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Các nhà nghiên cứu này cho rằng, những yếu tố tạo thành chất lượng giáo dục gồm có: Giáo viên, chương trình và sách giáo khoa; Phương pháp dạy học; Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học... Trong đó, giáo viên là yếu tố có vai trò quyết định hàng đầu đến chất lượng giáo dục. Để nâng cao chất lượng giáo viên thì cần phải đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; xây dựng hệ thống chính sách cho giáo viên; xây dựng cơ chế tuyển chọn, đánh giá giáo viên và quản lý toàn diện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên.

  1. Nội dung công tác phát triển đội ngũ giáo viên

 Đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên.

          Nội dung đánh giá giáo viên bao gồm: Trình độ nghiệp vụ; thực hiện quy chế chuyên môn; kết quả giảng dạy, giáo dục; việc thực hiện các công tác khác đư­ợc phân công.Căn cứ vào đặc điểm lao động sư­ phạm của giáo viên; căn cứ vào nội dung cần đánh giá (theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) đối với giáo viên ở các bậc học. Có thể nêu ra chuẩn đánh giá giáo viên theo các tiêu chí sau:

+ Thứ nhất, đảm bảo chính xác, khách quan, công khai, công bằng, dân chủ. Phải dựa vào các kết quả đạt được thông qua các minh chứng phù hợp với các lĩnh vực, yêu cầu, tiêu chí của Chuẩn.

+ Thứ hai, xác định được mặt mạnh, mặt yếu về năng lực nghề nghiệp, hiệu quả làm việc trong điều kiện cụ thể của nhà trường để giúp giáo viên phát triển khả năng giáo dục và dạy học.

+ Thứ ba, thực hiện theo đúng các quy định tại Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT và văn bản hướng dẫn của các cấp quản lý. Xây dựng môi trường thân thiện, dân chủ và thật sự tôn trọng lẫn nhau trong quá trình đánh giá. Không tạo nên sự căng thẳng cũng như không gây áp lực cho cả phía quản lý và giáo viên.

Kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên :

Để có được đội ngũ giáo viên với chất lượng cao đến năm 2025 thì cần phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên  trong quy hoạch.

- Tham gia xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên trong trường để thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, nhất là kế hoạch bồi dưỡng hàng tuần trong năm học, về phần mình chịu trách nhiệm giúp đỡ các giáo viên  trong trường tự bồi dưỡng theo các tài liệu bồi dưỡng của Bộ.

- Tham gia quá trình đánh giá kết quả bồi dưỡng giáo viên trong trường, nhất là việc tự bồi dưỡng và bồi dưỡng lẫn nhau trong nhóm chuyên môn.

                Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên : Ngành và nhà trường đưa ra mục tiêu, kế hoạch bồi dưỡng cho đơn vị và chỉ đạo các tổ chức xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên .

                Tổ chức các hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên : Tạo điều kiện cho tập thể và cá nhân thực hiện kế hoạch bồi dường nâng cao trình độ chuyên môn do ngành và trường tổ chức. Đặc biệt khuyến khích các nhà trường tổ chức các chuyên đề thiết thực để giải quyết các vướng mắc về chuyên môn cho đội ngũ giáo viên .

                Chỉ đạo thực hiện kế hoạch bồi dưỡng: Thành lập ban chỉ đạo công tác bồi dưỡng giáo viên (Lãnh đạo, chuyên viên phòng giáo dục và đại diện Ban giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên cốt cán của các trường). Phân công nhiệm vụ phát huy năng lực sở trường của các thành viên và tổ chức, chỉ đạo triển khai kế hoạch một cách tỉ mỉ, cụ thể; đồng thời gắn trách nhiệm của các thành viên tham gia công tác bồi dưỡng giáo viên .

Đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viê  là một việc làm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, góp phần phát triển đội ngũ. Làm tốt công tác này sẽ là yếu tố góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng giảng dạy và quyết định việc nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên , là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững trước mắt cũng như lâu dài.

    Để xây dựng, phát triển mạng lưới đội ngũ giáo viên vững mạnh ở các trường, trước hết cần thay đổi về nhận thức vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển đội ngũ này trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục. Song chúng ta cần phải xác định rõ các tiêu chí chung về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, khả năng quản lý... từ đó có cơ sở quy hoạch, phát triển đội ngũ giáo viên đi đầu trong việc lựa chọn xây dựng mạng lưới giáo dục. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong dạy học, việc phát triển đội ngũ giáo viên đi đầu cho ngành giáo dục và đào tạo là hết sức cấp thiết. Đội ngũ giáo viên này luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất góp phần quyết định sự phát triển của một nhà trường, bởi lẽ chính họ là đầu tàu tham gia tổ chức thực hiện có hiệu quả các khâu của quá trình dạy học, giáo dục và phát triển chuyên môn, phát triển nhà trường.

Chất lượng giáo viên là tập hợp các yếu tố: Bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, đảm bảo cho người giáo viên đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong thời đại đổi mới, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 Đội ngũ giáo viên phần lớn là chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có lòng yêu nghề, thương yêu học sinh, đối xử công bằng, không thành kiến với học sinh; có tinh thần trách nhiệm cao. Luôn bám lớp, bám trường, luôn trung thành với sự nghiệp giáo dục của Đảng, tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao tay nghề. Song bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận nhỏgiáo viên chưa thực hiện tốt việc cải tiến phương pháp, nhất là việc đổi mới phương pháp theo chương trình mới hiện nay điều đó thể hiện ở việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, cá biệt hóa trong dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của từng đối tượng học sinh; ý thức tìm tòi, học hỏi để vận dụng phương pháp mới vào công tác giảng dạy - Giáo dục học sinh của giáo viên chưa cao. Trong đó một số lĩnh vực nhất là về lĩnh vực giáo dục các đối tượng chuyên biệt giáo viên vẫn còn khá lúng túng…

  1. Giải pháp cao chất lượng công tác triển đội ngũ giáo viên

Để nâng cao chất lượng công tác triển đội ngũ giáo viên , Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Giải pháp về công tác đánh giá đội ngũ giáo viên

Vấn đề đánh giá đội ngũ giáo viên là việc làm rất quan trọng và rất cần thiết. Tuy nhiên, muốn đánh giá chính xác - đúng đắn đội ngũ giáo viên cần phải: Có quan điểm đúng, đảm bảo nguyên tắc, có phương pháp và biết tránh những sai lầm thường mắc khi đánh giá giáo viên.

            Khi đánh giá giáo viên phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

+ Nguyên tắc thống nhất giữa hoạt động và phát triển nhân cách.

+ Nguyên tắc đảm bảo tính lịch sử.

+ Nguyên tắc phát triển.

+ Nguyên tắc toàn diện.

Phương pháp đánh giá phải đảm bảo sự phối hợp và sử dụng các phương pháp khác nhau như: Nghiên cứu hồ sơ, phương pháp quan sát, phương pháp tìm hiểu qua trò chuyện và chú trọng phương pháp thông qua hoạt động thực tiễn.

Kết quả đánh giá phải được lưu giữ trong hồ sơ cán bộ và để làm cơ sở trong việc bố trí, sử dụng. Sau khi đánh giá cán bộ cần thiết phải có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cụ thể phù hợp tương xứng với kết quả đánh giá.

   Giải pháp về công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên

Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ ba của BCHTW Đảng khoá VIII đã khẳng định rõ:

    “ Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, đảm bảo cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.” [25; Tr 82].

Dó đó, công tác quy hoạch có ý nghĩa to lớn trong lý luận và thực tiễn.

      Một số yêu cầu cơ bản của công tác quy hoạch giáo viên

Quy hoạch giáo viên phải gắn chặt với việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, công tác quy hoạch giáo viên thực chất là để có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, tạo điều kiện cho họ trưởng thành nhanh theo đúng yêu cầu cần thiết. Cho nên, việc đào tạo phát triển phải có mục đích, mục tiêu cụ thể và có yêu cầu nhiệm vụ rõ ràng, cần hết sức tránh việc đào tạo phát triển chung chung không đáp ứng được nhu cầu giáo viên cần thiết.

Cần phải có kế hoạch để làm tốt công tác quy hoạch giáo viên, mỗi chức danh lãnh đạo phải đào tạo người kế cận để phát triển họ sớm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

    Cách thức xây dựng quy hoạch giáo viên

Đối với nhu cầu biên chế giáo viên trong giai đoạn quy hoạch (từ 5 đến 10 năm), nhu cầu ấy phải xét trong tổng thể toàn cục và cụ thể từng đơn vị, bao gồm:

- Nhu cầu tổng thể của ngành Giáo dục

- Nhu cầu cụ thể từng đơn vị

- Nhu cầu để thay thế

- Nhu cầu để bổ sung

- Nhu cầu để đáp ứng cho sự phát triển bền vững

    Giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp bồi dưỡng đội ngũ giáo viên

 Đổi mới công tác phát triển đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng xu thế phát triển của giáo dục trong nước và trên thế giới. Chính vì vậy, nội dung của bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phải phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục thế giới.

Giáo dục trong nước và trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ theo xu thế: Tăng cường giáo dục nhân văn, giáo dục tin học và ngoại ngữ; đào tạo những con người có năng lực, đóng góp tích cực vào sự tiến bộ của xã hội; hiện đại hóa phương pháp, xây dựng hệ thống giáo dục suốt đời làm cơ sở cho xã hội học tập; và đội ngũ giáo viên là nhân tố quan trọng góp phần to lớn tạo nên diện mạo và chất lượng giáo dục của mỗi quốc gia. Vì thế giáo viên phải được trang bị đầy đủ về bản lĩnh, kiến thức chuyên môn và năng lực nghề nghiệp của mình để đáp ứng xu thế giáo dục của thế kỉ XXI.

 Về phương pháp bồi dưỡng, cần nâng cao ý thức và rèn luyện thói quen tự học của giáo viên

Kết hợp chặt chẽ giữa tự học của cá nhân với học tập, hợp tác với đồng nghiệp, với kiểm tra của cán bộ quản lí giáo dục và việc khen thưởng kịp thời và việc ban hành những chế độ chính sách đúng đắn, nhằm động viên và đánh giá kết quả học tập của từng giáo viên

 Lựa chọn các chuyên đề thiết thực xuất phát từ thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu đại đa số giáo viên

Mỗi môn học đều có đặc trưng và yêu cầu cơ bản riêng (còn được xem là chuẩn) về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Có nắm được những yêu cầu này, giáo viên mới thực hiện đúng mục tiêu dạy học trong từng bài và toàn bộ môn học.

 Giải pháp về xây dựng môi trường sư phạm và cơ chế chính sách cho giáo viên.

Về  xây dựng môi trường sư phạm

Đế xây dựng môi trương sư phạm chuẩn trình độ thì  lựa chọn đội ngũ có trình độ chuẩn và trên chuẩn;để đào tạo,bồi dưỡng phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, trang bị kiến thức, rèn luyện kĩ năng sư phạm cho giáo viên  nhằm tạo nên đội ngũ nhà giáo có năng lực giảng dạy, hoạt động đáp ứng với yêu cầu của xã hội, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên.

Tuyển chuẩn trình độ giáo viên :

Đối tượng tuyển chuẩn gồm hai nhóm: Đối tượng đã tốt nghiệp trường sư phạm và đối tượng được tuyển chọn vào các trường sư phạm.

Việc xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn giáo viên phải công khai để thực hiện có hiệu quả tốt và tránh được một số tiêu cực có thể xảy ra.

Cơ chế chính sách cho công tác phát triển đội ngũ giáo viên .

   Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên  ngoài việc thực hiện trả lương đúng theo quy định, tăng lương đúng kỳ hạn cần thực hiện nâng lương trước thời hạn theo kết quả chất lượng giảng dạy của giáo viên  như: đạt giáo viên giỏi cấp thành phố 2 năm liên tục, giáo viên giỏi cấp tỉnh, giáo viên có sáng kiến kinh nghiệm cấp tỉnh…để khuyến khích giáo viên vươn lên trong nghiệp vụ chuyên môn của chính mình.

Tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục, huy động mọi nguồn lực xã hội và hỗ trợ của chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chế độ chính sách đối với giáo viên và công tác phát triển đội ngũ giáo viên.

         Hiện nay ngân sách Nhà nước chỉ cho giáo dục hàng năm chủ yếu là tiền lương và một số khoản phụ cấp khác. Nếu chỉ dựa vào nguồn ngân sách này thì sẽ không đủ để thực hiện các chính sách đối với giáo viên. Vậy ngành giáo dục cần phải làm tốt công tác xã hội hoá và đa dạng hóa nguồn lực như bổ sung quỹ lương, quỹ khuyến học khuyến tài, thực hiện chế độ nghỉ ngơi, tham quan giải trí.

Tóm lại, phát triển đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ hết sức cần thiết. Nội dung của phát triển đội ngũ giáo viên phải phản ánh đúng xu thế phát triển của giáo dục trong nước và thế giới. Công tác phát triển đội ngũ giáo viên phải được sự quan tâm của toàn ngành giáo dục cũng như của toàn xã hội để có đội ngũ giáo viên vừa đáp ứng yêu cầu hiện tại, vừa mang tính chiến lược lâu dài với mục tiêu là: ổn định về số lượng, đảm bảo chất lượng, cơ cấu hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục, góp phần mang lại sự phát triển chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Ban chấp hành Trung ương Đảng, Thông báo số 242-TB/TW, kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW2 (khoáVIII), phương hướng GD-ĐT đến năm 2020, Hà Nội ngày 15/4/2009.

[2]. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2007), Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học.

[3]. Bộ Giáo dục - Đào tạo, Quyết định 32/2005/QĐ-BGD-ĐT về việc ban hànhQuy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia.

[4].Chương trình hành động của UBND thành phố Hà Tĩnh thực hiện thông báo Kết luận 242 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020.

[5]. Dự thảo chiến lược giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009-2020, Hà Nội 2009.

[6].  Nguyễn Ngọc Hợi, Thái Văn Thành, “Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Tiểu học”, tạp chí giáo dục, số đặc biệt, tháng 4/2006.

[7].  Nguyễn Ngọc Hợi, Trần Văn Ân, Phạm Minh Hùng, Mạnh Tuấn Hùng, Nguyễn Thanh Mĩ, Trần Xuân Sinh, Nguyễn Văn Sơn, Hà Văn Sơn, Thái Văn Thành, Nguyễn Văn Tứ, Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện đề tài, Các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ( 3/2006).

[8]. Phạm Minh Hạc, Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI,  NXB Chính trị Quốc gia  Hà Nội, năm 1999.