Tóm tắt
Phát triển đội ngũ giáo viên là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của nâng cao chất lượng giáo dục. Từ việc nghiên cứu nội dung công tác phát triển đội ngũ giảng viên, bài báo tập trung đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phát triển đội ngũ giáo viên, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo.
Từ khóa: chất lượng công tác phát triển đội ngũ giáo viên
Nâng cao chất lượng trong giáo dục luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhiều đối tượng dù tham gia hoặc không tham gia vào quá trình giáo dục.Nâng cao chất lượngcông tác phát triển đội ngũ giáo viên từ lâu đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Qua các công trình nghiên cứu của họ, thấy một điểm chung, đó là: Khẳng định vai trò quan trọng của công tác phát triển đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
“Thuật ngữ chất lượng" phản ánh thuộc tính đặc trưng, giá trị, bản chất của sự vật và tạo nên sự khác biệt (về chất) giữa sự vật này và sự vật khác. Theo quan điểm triết học, chất lượng hay sự biến đổi về chất là kết quả của quá trình tích luỹ về lượng (quá trình tích luỹ, biến đổi) tạo nên những bước nhảy vọt về chất của sự vật hiện tượng”.
Chất lượng giáo dục: Từ trước tới nay cụm từ này đã được đề cập rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong hoạt động chuyên môn của ngành giáo dục và cũng gây tranh cãi nhiều trong dư luận - xã hội. Thế nhưng, hiện nay chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh.
Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Đản (Trường đại học Sư phạm Hà Nội), chất lượng giáo dục là những lợi ích, giá trị mà kết quả học tập đem lại cho cá nhân và xã hội, trước mắt và lâu dài. Khái niệm trên được đúc kết từ nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ quản lý chất lượng, thì chất lượng giáo dục là học sinh vừa cần phải nắm được các kiến thức kỹ năng, phương pháp chuẩn mực thái độ sau một quá trình học; đáp ứng được các yêu cầu khi lên lớp, chuyển cấp, vào học nghề hay đi vào cuộc sống lao động...
Còn với góc độ giáo dục học thì chất lượng giáo dục được giới hạn trong phạm vi đánh giá sự phát triển của cá nhân sau quá trình học tập và sự phát triển xã hội khi họ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế sản xuất, chính trị - xã hội, văn hóa - thể thao.
Tuy nhiên, để đánh giá chất lượng giáo dục, người ta thường tập trung vào một số tiêu chí, chỉ số cơ bản của chất lượng giáo dục đó là: Đầu tư ngân sách cho giáo dục, tỷ lệ nhập học trong độ tuổi, tỷ lệ lưu ban, bỏ học; tỷ lệ hoàn thành cấp học; thời lượng học tập của học sinh, tình trạng đội ngũ giáo viên, đạo đức của người học, mức độ nhận thức, kỹ năng và thể lực của người học và tình trạng người học tốt nghiệp có việc làm và đáp ứng yêu cầu của công việc.
Qua nghiên cứu về chất lượng giáo dục trung học chuyên nghiệp, PGS.TS Nguyễn Đức Trí (Viện Chiến lược và chương trình giáo dục) đã có quan niệm rằng, chất lượng giáo dục được đánh giá bằng đầu vào, đầu ra (sản phẩm của giáo dục); "giá trị gia tăng" (sự tăng trưởng trong phát triển trí tuệ và nhân cách người học); giá trị học thuật - tri thức (đội ngũ giáo viên của trường có chất lượng, có uy tín thì trường được xem là có chất lượng)...
Giáo viên là yếu tố hàng đầu nâng cao chất lượng giáo dục
Người giáo viên có vai trò quyết định đối với quá trình dạy và học, một lực lượng có “chức năng đặc biệt” chi phối và định hướng cho nguồn nhân lực tương lai của đất nước. Giáo viên, thông qua các hoạt động giảng dạy và giáo dục góp phần cung cấp những kiến thức cơ bản cần thiết cho học sinh. Đồng thời, cũng chính giáo viên là người có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình hình thành nhân cách thế hệ trẻ. Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng công tác phát triển đội ngũ giáo viên là một yêu cấp thiết nhằm đáp ứng sự nghiệp đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.
Chất lượng công tác phát triển đội ngũ giáo viên luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của bất kỳ hệ thốnggiáo dục nào. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì không thể không nâng cao chất lượng công tácphát triển đội ngũ giáo viên
Để nâng cao chất lượng giáo dục, theo TS Nguyễn Anh Dũng (Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục) thì cần phải tiến hành đổi mới chương trình giáo dục va phát triển đội ngũ giáo viên. Đồng thời ưu tiên giải quyết đồng bộ các khâu đào tạo bồi dưỡng sử dụng đãi ngộ và kiểm tra đánh giá đội ngũ giáo viên. Thứ hai là phải đẩy mạnh quản lý giáo dục, trong đó phải đẩy mạnh phân cấp quản lý, xây dựng và thực hiện chuẩn giáo dục, tăng cường thanh tra chuyên môn và đầu tư nguồn lực cơ sở vật chất.
Qua nghiên cứu thực trạng chất lượng giáo viên, nhóm nghiên cứu gồm các đồng chí PGS.TS Nguyễn Ngọc Hợi; PGS.TS Phạm Minh Hùng và TS Thái Văn Thành (Đại học Vinh) cũng cho rằng, muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Các nhà nghiên cứu này cho rằng, những yếu tố tạo thành chất lượng giáo dục gồm có: Giáo viên, chương trình và sách giáo khoa; Phương pháp dạy học; Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học... Trong đó, giáo viên là yếu tố có vai trò quyết định hàng đầu đến chất lượng giáo dục. Để nâng cao chất lượng giáo viên thì cần phải đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; xây dựng hệ thống chính sách cho giáo viên; xây dựng cơ chế tuyển chọn, đánh giá giáo viên và quản lý toàn diện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên.
Đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên.
Nội dung đánh giá giáo viên bao gồm: Trình độ nghiệp vụ; thực hiện quy chế chuyên môn; kết quả giảng dạy, giáo dục; việc thực hiện các công tác khác được phân công.Căn cứ vào đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên; căn cứ vào nội dung cần đánh giá (theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) đối với giáo viên ở các bậc học. Có thể nêu ra chuẩn đánh giá giáo viên theo các tiêu chí sau:
+ Thứ nhất, đảm bảo chính xác, khách quan, công khai, công bằng, dân chủ. Phải dựa vào các kết quả đạt được thông qua các minh chứng phù hợp với các lĩnh vực, yêu cầu, tiêu chí của Chuẩn.
+ Thứ hai, xác định được mặt mạnh, mặt yếu về năng lực nghề nghiệp, hiệu quả làm việc trong điều kiện cụ thể của nhà trường để giúp giáo viên phát triển khả năng giáo dục và dạy học.
+ Thứ ba, thực hiện theo đúng các quy định tại Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT và văn bản hướng dẫn của các cấp quản lý. Xây dựng môi trường thân thiện, dân chủ và thật sự tôn trọng lẫn nhau trong quá trình đánh giá. Không tạo nên sự căng thẳng cũng như không gây áp lực cho cả phía quản lý và giáo viên.
Kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên :
Để có được đội ngũ giáo viên với chất lượng cao đến năm 2025 thì cần phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong quy hoạch.
- Tham gia xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên trong trường để thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, nhất là kế hoạch bồi dưỡng hàng tuần trong năm học, về phần mình chịu trách nhiệm giúp đỡ các giáo viên trong trường tự bồi dưỡng theo các tài liệu bồi dưỡng của Bộ.
- Tham gia quá trình đánh giá kết quả bồi dưỡng giáo viên trong trường, nhất là việc tự bồi dưỡng và bồi dưỡng lẫn nhau trong nhóm chuyên môn.
Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên : Ngành và nhà trường đưa ra mục tiêu, kế hoạch bồi dưỡng cho đơn vị và chỉ đạo các tổ chức xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên .
Tổ chức các hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên : Tạo điều kiện cho tập thể và cá nhân thực hiện kế hoạch bồi dường nâng cao trình độ chuyên môn do ngành và trường tổ chức. Đặc biệt khuyến khích các nhà trường tổ chức các chuyên đề thiết thực để giải quyết các vướng mắc về chuyên môn cho đội ngũ giáo viên .
Chỉ đạo thực hiện kế hoạch bồi dưỡng: Thành lập ban chỉ đạo công tác bồi dưỡng giáo viên (Lãnh đạo, chuyên viên phòng giáo dục và đại diện Ban giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên cốt cán của các trường). Phân công nhiệm vụ phát huy năng lực sở trường của các thành viên và tổ chức, chỉ đạo triển khai kế hoạch một cách tỉ mỉ, cụ thể; đồng thời gắn trách nhiệm của các thành viên tham gia công tác bồi dưỡng giáo viên .
Đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viê là một việc làm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, góp phần phát triển đội ngũ. Làm tốt công tác này sẽ là yếu tố góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng giảng dạy và quyết định việc nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên , là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững trước mắt cũng như lâu dài.
Để xây dựng, phát triển mạng lưới đội ngũ giáo viên vững mạnh ở các trường, trước hết cần thay đổi về nhận thức vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển đội ngũ này trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục. Song chúng ta cần phải xác định rõ các tiêu chí chung về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, khả năng quản lý... từ đó có cơ sở quy hoạch, phát triển đội ngũ giáo viên đi đầu trong việc lựa chọn xây dựng mạng lưới giáo dục. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong dạy học, việc phát triển đội ngũ giáo viên đi đầu cho ngành giáo dục và đào tạo là hết sức cấp thiết. Đội ngũ giáo viên này luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất góp phần quyết định sự phát triển của một nhà trường, bởi lẽ chính họ là đầu tàu tham gia tổ chức thực hiện có hiệu quả các khâu của quá trình dạy học, giáo dục và phát triển chuyên môn, phát triển nhà trường.
Chất lượng giáo viên là tập hợp các yếu tố: Bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, đảm bảo cho người giáo viên đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong thời đại đổi mới, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đội ngũ giáo viên phần lớn là chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có lòng yêu nghề, thương yêu học sinh, đối xử công bằng, không thành kiến với học sinh; có tinh thần trách nhiệm cao. Luôn bám lớp, bám trường, luôn trung thành với sự nghiệp giáo dục của Đảng, tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao tay nghề. Song bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận nhỏgiáo viên chưa thực hiện tốt việc cải tiến phương pháp, nhất là việc đổi mới phương pháp theo chương trình mới hiện nay điều đó thể hiện ở việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, cá biệt hóa trong dạy học nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của từng đối tượng học sinh; ý thức tìm tòi, học hỏi để vận dụng phương pháp mới vào công tác giảng dạy - Giáo dục học sinh của giáo viên chưa cao. Trong đó một số lĩnh vực nhất là về lĩnh vực giáo dục các đối tượng chuyên biệt giáo viên vẫn còn khá lúng túng…
Để nâng cao chất lượng công tác triển đội ngũ giáo viên , Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Giải pháp về công tác đánh giá đội ngũ giáo viên
Vấn đề đánh giá đội ngũ giáo viên là việc làm rất quan trọng và rất cần thiết. Tuy nhiên, muốn đánh giá chính xác - đúng đắn đội ngũ giáo viên cần phải: Có quan điểm đúng, đảm bảo nguyên tắc, có phương pháp và biết tránh những sai lầm thường mắc khi đánh giá giáo viên.
Khi đánh giá giáo viên phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc thống nhất giữa hoạt động và phát triển nhân cách.
+ Nguyên tắc đảm bảo tính lịch sử.
+ Nguyên tắc phát triển.
+ Nguyên tắc toàn diện.
Phương pháp đánh giá phải đảm bảo sự phối hợp và sử dụng các phương pháp khác nhau như: Nghiên cứu hồ sơ, phương pháp quan sát, phương pháp tìm hiểu qua trò chuyện và chú trọng phương pháp thông qua hoạt động thực tiễn.
Kết quả đánh giá phải được lưu giữ trong hồ sơ cán bộ và để làm cơ sở trong việc bố trí, sử dụng. Sau khi đánh giá cán bộ cần thiết phải có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cụ thể phù hợp tương xứng với kết quả đánh giá.
Giải pháp về công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ ba của BCHTW Đảng khoá VIII đã khẳng định rõ:
“ Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, đảm bảo cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.” [25; Tr 82].
Dó đó, công tác quy hoạch có ý nghĩa to lớn trong lý luận và thực tiễn.
Một số yêu cầu cơ bản của công tác quy hoạch giáo viên
Quy hoạch giáo viên phải gắn chặt với việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, công tác quy hoạch giáo viên thực chất là để có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, tạo điều kiện cho họ trưởng thành nhanh theo đúng yêu cầu cần thiết. Cho nên, việc đào tạo phát triển phải có mục đích, mục tiêu cụ thể và có yêu cầu nhiệm vụ rõ ràng, cần hết sức tránh việc đào tạo phát triển chung chung không đáp ứng được nhu cầu giáo viên cần thiết.
Cần phải có kế hoạch để làm tốt công tác quy hoạch giáo viên, mỗi chức danh lãnh đạo phải đào tạo người kế cận để phát triển họ sớm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Cách thức xây dựng quy hoạch giáo viên
Đối với nhu cầu biên chế giáo viên trong giai đoạn quy hoạch (từ 5 đến 10 năm), nhu cầu ấy phải xét trong tổng thể toàn cục và cụ thể từng đơn vị, bao gồm:
- Nhu cầu tổng thể của ngành Giáo dục
- Nhu cầu cụ thể từng đơn vị
- Nhu cầu để thay thế
- Nhu cầu để bổ sung
- Nhu cầu để đáp ứng cho sự phát triển bền vững
Giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
Đổi mới công tác phát triển đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng xu thế phát triển của giáo dục trong nước và trên thế giới. Chính vì vậy, nội dung của bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phải phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục thế giới.
Giáo dục trong nước và trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ theo xu thế: Tăng cường giáo dục nhân văn, giáo dục tin học và ngoại ngữ; đào tạo những con người có năng lực, đóng góp tích cực vào sự tiến bộ của xã hội; hiện đại hóa phương pháp, xây dựng hệ thống giáo dục suốt đời làm cơ sở cho xã hội học tập; và đội ngũ giáo viên là nhân tố quan trọng góp phần to lớn tạo nên diện mạo và chất lượng giáo dục của mỗi quốc gia. Vì thế giáo viên phải được trang bị đầy đủ về bản lĩnh, kiến thức chuyên môn và năng lực nghề nghiệp của mình để đáp ứng xu thế giáo dục của thế kỉ XXI.
Về phương pháp bồi dưỡng, cần nâng cao ý thức và rèn luyện thói quen tự học của giáo viên
Kết hợp chặt chẽ giữa tự học của cá nhân với học tập, hợp tác với đồng nghiệp, với kiểm tra của cán bộ quản lí giáo dục và việc khen thưởng kịp thời và việc ban hành những chế độ chính sách đúng đắn, nhằm động viên và đánh giá kết quả học tập của từng giáo viên
Lựa chọn các chuyên đề thiết thực xuất phát từ thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu đại đa số giáo viên
Mỗi môn học đều có đặc trưng và yêu cầu cơ bản riêng (còn được xem là chuẩn) về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Có nắm được những yêu cầu này, giáo viên mới thực hiện đúng mục tiêu dạy học trong từng bài và toàn bộ môn học.
Giải pháp về xây dựng môi trường sư phạm và cơ chế chính sách cho giáo viên.
Về xây dựng môi trường sư phạm
Đế xây dựng môi trương sư phạm chuẩn trình độ thì lựa chọn đội ngũ có trình độ chuẩn và trên chuẩn;để đào tạo,bồi dưỡng phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, trang bị kiến thức, rèn luyện kĩ năng sư phạm cho giáo viên nhằm tạo nên đội ngũ nhà giáo có năng lực giảng dạy, hoạt động đáp ứng với yêu cầu của xã hội, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên.
Tuyển chuẩn trình độ giáo viên :
Đối tượng tuyển chuẩn gồm hai nhóm: Đối tượng đã tốt nghiệp trường sư phạm và đối tượng được tuyển chọn vào các trường sư phạm.
Việc xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn giáo viên phải công khai để thực hiện có hiệu quả tốt và tránh được một số tiêu cực có thể xảy ra.
Cơ chế chính sách cho công tác phát triển đội ngũ giáo viên .
Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ngoài việc thực hiện trả lương đúng theo quy định, tăng lương đúng kỳ hạn cần thực hiện nâng lương trước thời hạn theo kết quả chất lượng giảng dạy của giáo viên như: đạt giáo viên giỏi cấp thành phố 2 năm liên tục, giáo viên giỏi cấp tỉnh, giáo viên có sáng kiến kinh nghiệm cấp tỉnh…để khuyến khích giáo viên vươn lên trong nghiệp vụ chuyên môn của chính mình.
Tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục, huy động mọi nguồn lực xã hội và hỗ trợ của chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chế độ chính sách đối với giáo viên và công tác phát triển đội ngũ giáo viên.
Hiện nay ngân sách Nhà nước chỉ cho giáo dục hàng năm chủ yếu là tiền lương và một số khoản phụ cấp khác. Nếu chỉ dựa vào nguồn ngân sách này thì sẽ không đủ để thực hiện các chính sách đối với giáo viên. Vậy ngành giáo dục cần phải làm tốt công tác xã hội hoá và đa dạng hóa nguồn lực như bổ sung quỹ lương, quỹ khuyến học khuyến tài, thực hiện chế độ nghỉ ngơi, tham quan giải trí.
Tóm lại, phát triển đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ hết sức cần thiết. Nội dung của phát triển đội ngũ giáo viên phải phản ánh đúng xu thế phát triển của giáo dục trong nước và thế giới. Công tác phát triển đội ngũ giáo viên phải được sự quan tâm của toàn ngành giáo dục cũng như của toàn xã hội để có đội ngũ giáo viên vừa đáp ứng yêu cầu hiện tại, vừa mang tính chiến lược lâu dài với mục tiêu là: ổn định về số lượng, đảm bảo chất lượng, cơ cấu hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục, góp phần mang lại sự phát triển chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban chấp hành Trung ương Đảng, Thông báo số 242-TB/TW, kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW2 (khoáVIII), phương hướng GD-ĐT đến năm 2020, Hà Nội ngày 15/4/2009.
[2]. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2007), Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học.
[3]. Bộ Giáo dục - Đào tạo, Quyết định 32/2005/QĐ-BGD-ĐT về việc ban hànhQuy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia.
[4].Chương trình hành động của UBND thành phố Hà Tĩnh thực hiện thông báo Kết luận 242 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020.
[5]. Dự thảo chiến lược giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009-2020, Hà Nội 2009.
[6]. Nguyễn Ngọc Hợi, Thái Văn Thành, “Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Tiểu học”, tạp chí giáo dục, số đặc biệt, tháng 4/2006.
[7]. Nguyễn Ngọc Hợi, Trần Văn Ân, Phạm Minh Hùng, Mạnh Tuấn Hùng, Nguyễn Thanh Mĩ, Trần Xuân Sinh, Nguyễn Văn Sơn, Hà Văn Sơn, Thái Văn Thành, Nguyễn Văn Tứ, Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện đề tài, Các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ( 3/2006).
[8]. Phạm Minh Hạc, Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 1999.
Tóm tắt
Sau khi học xong chuyên đề Giáo dục học do GS.TS Phạm Minh Hùng giảng dạy, chúng tôi thấy đây là một chuyên đề vô cùng bổ ích và lý thú. Chuyên đề đã giúp học viên hiểu sâu sắc về những vấn đề lịch sử giáo dục và giáo dục học so sánh, cung cấp cho học viên những thông tin, kiến thức mới nhất về giáo dục và quản lý giáo dục.
Từ khóa: vai trò của người thầy
Abstract
After completing the Education Study topic taught by Prof. Dr. Pham Minh Hung, we found this to be an extremely useful and interesting topic. The seminar has helped students gain a deep understanding of educational history and comparative education, providing them with the latest information and knowledge about education and educational management.
Key words: education, educational management
Trong các nội dung mà chuyên đề cung cấp, chúng tôi tâm đắc nhất với nội dung nói về các nhà giáo dục tiêu biểu qua các thời kỳ xã hội. Trong từng thời kỳ lịch sử, mỗi nhà giáo dục đều có những đóng góp, những kinh nghiệm để lại cho hậu thế.Trong đó, có thể thấy rất rõ rằng J.A. Comenxki là giáo dục đã để lại cho nhân loại những kiến thức, phương pháp, biện pháp vô cùng quý báu trong lĩnh vực giáo dục. Những dự kiến của ông nêu ra cách đây gần bốn thế kỷ nhưng thật sáng tạo và có ý nghĩa thiết thực cho đến ngày nay.
J.A. Cômenxki sinh năm1592, mất năm1670. Ông được sinh ra trong một gia đình làm thợ, cha mẹ ông mất sớm nên ông sống trong tình thương của Hội Thiên chúa giáo. Do thông minh,ông được gửi đi nước ngoài học tập, tốt nghiệp trở về dạy học cho con em trong Hội. Từ đó ông trở thành một thầy giáo giỏi, đầy tâm huyết với nghề nghiệp. Ông đã viết hàng trăm tài liệu, tiêu biểu nhất là Phép giảng dạy lớn (1632), đây là công trình đặt nền móng cho sự ra đời của Giáo dục học. Ông đã được người đời xem là “Ông tổ của nền giáo dục cận đại, Galilê của giáo dục". Ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới vào năm 1992 (nhân kỷ niệm 400 năm ngày sinh của ông).
Quan điểm giáo dục của J.A. Cômenxki là một hệ thống các quan điểm rất khoa học và mang đậm tính nhân văn. Ông quan niệm về vai trò của giáo dục và người thầy như sau:
Về vai trò của giáo dục, ông rất tin tưởng vào tác dụng của giáo dục.Theo ông chỉ có giáo dục mới làm cho con người ta đáng là con người. Nhà trường là công xưởng chế tạo ra nhân đạo, hạnh phúc và con người chân chính. Giáo dục cần thiết cho tất cả mọi người. Theo ông, mọi người đều phải học, nhưng tuổi cần học hơn cả là tuổi trẻ. Sáp mềm thì bóp nặn dễ dàng, cứng rồi thì làm mạnh sẽ gãy. Ông đã chỉ rõ tác dụng của giáo dục đối với sự thay đổi xã hội.
Về vai trò của người thầy giáo và yêu cầu đối với họ, ông cho rằng: Người thầy có một trọng trách hết sức nặng nề và vinh quang. Theo ông “Dưới mặt trời này, không có một chức vụ nào ưu việt hơn”. Ông ví người thầy giáo như một người thợ nặn, nặn những tâm hồn của trẻ. Hoặc như một ngọn lửa, xua đuổi hết những bóng tối trong trí óc. Đó là một quan điểm hết sức tiến bộ mà đến ngày nay chúng ta vẫn đã và đang đi theo quan điểm đó. Ông đề cao vai trò của người thầy, yêu cầu xã hội tôn trọng người thầy giáo, nhưng ông cũng yêu cầu người thầy giáo phải nhận thức rõ chức năng quan trọng của mình, phải mẫu mực về lòng trung thực, tinh thần kiên trì, hăng hái. Phải là người có học vấn và cần cù lao động, yêu nghề, đối xử với học sinh như người cha. Tất cả những phẩm hạnh đó là tầm gương sinh động để học sinh noi theo. Quan điểm này của ông đã được chúng ta kế thừa, học tập, và hiện nay, toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
Theo J.A. Cômenxki, người thầy giáo phải ân cần, hòa nhã, vui vẻ, thân mật và có một tình yêu chân thành đối với học sinh. Nếu thầy cô giáo không thể làm như một người cha, một người mẹ, thì cũng không thể làm như một người thầy. Đó cũng chính là quan điểm, là phương châm hành động của chúng ta hiện nay: cô giáo như mẹ hiền.
Về tư tưởng giáo dục, Comenxki cho rằng: “tất cả mọi người đều được học về mọi điều”. Comenxki đã yêu cầu mọi trẻ em thuộc mọi gia đình giàu cũng như nghèo, con quí tộc cũng như con thường dân, có danh tiếng hay không danh tiếng, ở nông thôn hay thành thị, nam cũng như nữ đều được học trường quốc ngữ một cách bình đẳng. Có thể nói lúc bấy giờ Comenxki đã đề ra tư tưởng phổ cập giáo dục tiểu học. Khác với những nhà nhân văn, nhà giáo dục của thời văn hóa phục hưng,ông đã tạo nên hệ thống giáo dục không phải cho tầng lớp quí tộc, mà để cho mọi tầng lớp trong xã hội. Tư tưởng giáo dục chủ đạo của ông là: một nền giáo dục đúng đắn phải được tổ chức và hoạt động sao cho thích ứng với thiên nhiên và góp phần xác lập các quan hệ công bằng, hữu nghị giữa người với người và giữa các dân tộc. tư tưởng chủ đạo này trở thành nguyên tắc lớn nhất trong hoat động giáo dục của ông và là sự phản ánh tổng hợp mối hiểu biết rộng lớn mà ông đã tích lũy suốt đời.
Theo ông để mọi người có thể dễ dàng học tập thì phải có tài liệu, sách giáo khoa trình bày dễ hiểu. Mỗi môn học phải lựa chọn nội dung cần thiết, hữu ích đối với cuộc sống, nội dung cơ bản và cần được trình bày ngắn gọn, súc tích. Comenxki cũng như Rabbơle đều chủ trương nội dung giáo dục phải có tính bách khoa, toàn diện, nhưng khác với Rabơle ở chỗ ông đã lí giải,chứng minh về mặt triết học và về mặt xã hội chủ trương đó. Theo ông với nội dung giáo dục như vậy thì mới thực sự cần thiết cho con người, giúp con người ra đời hoạt động và đấu tranh được vững vàng. Hơn nữa, thế giới là một thể thống nhất, các khoa học phản ánh từng mặt vận động của thế giới.Khi học đầy đủ các khoa học đó với tinh thần bách khoa làm cho các sự vật được gắn liền với nhau bởi các quan hệ logic và làm như vậy sẽ tạo nên cái móng thắt chặt các bộ phận của hệ thống chung và nhờ vậy mà hệ thống đó càng thêm vững chắc.
Ngoài ra, ông còn là người đổi mới trong lĩnh vực lý luận dạy học. Ông đã nêu lên những tư tưởng tiến bộ, sâu sắc, những nguyên tắc và quy tắc tổ chức công tác dạy học. Ông đã tổng hợp tất cả những lý luận và kinh nghiệm quý báu của loài người về giáo dục từ thời cổ đại, thời văn hóa phục hưng và đặt cơ sở cho nền giáo dục cận đại.
Với những đóng góp to lớn và tiến bộ của mình cho sự nghiệp giáo dục, ông hoàn toàn xứng đáng với sự suy tôn của nhân loại: Cômenxki là ông tổ của nền giáo dục cận đại.
Cômenxki đã để lại một di sản giáo dục đồ sộ và quý báu. Ngày nay, chúng ta đã và đang đi theo các phương pháp, quan điểm giáo dục của ông. Toàn bộ tư tưởng giáo dục của ông là kết quả của một quá trình lao động sáng tạo, thiên tài. Nó có giá trị muôn thuở vì nó là quy luật của mối quan hệ giáo dục - tự nhiên - xã hội - con người trong quá trình phát triển nhân cách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Hạc (1996), Một số vấn đề giáo dục và Khoa học giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Hợi - Phạm Minh Hùng - Thái Văn Thành (2005),“Đổi mới công tác bồi dưỡng giáo viên”, Tạp chí Giáo dục (Số 110/3-2005).
4. Phạm Minh Hùng, Giáo dục học, Trường Đại học Vinh, năm 2008.
5. Phạm Công Lý, “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác dạy học của giáo viên”, Tạp chí giáo dục, số 3, Năm 2001, tr. 4-5.
Ngày 07/10/2021, Nhóm Sinh, Tổ Lý Hóa Sinh tổ chức sinh hoạt chuyên môn định kỳ tháng 10 nhằm trao đổi, thảo luận những nghiên cứu chuyên môn, nâng cao năng lực hoạt động chuyên môn cho các bộ giảng viên.
Tham dự cuộc họp có ThS. Nguyễn Khánh – P. Trưởng Khoa, TS. Lê Đức Minh – Trưởng Bộ môn và toàn thể giảng viên của nhóm.
Phát biểu tại cuộc họp, ThS. Nguyễn Khánh – P. Trưởng Khoa đánh giá cao những hoạt động của Tổ bộ môn, nhất trí với kế hoạch công tác tháng 10/2021 của Tổ.
TS. Lê Đức Minh triển khai nội dung buổi sinh hoạt
Tại buổi sinh hoạt chuyên môn, TS. Lê Danh Minh báo cáo chuyên đề “Chất lượng môi trường nước ở các thủy vực vùng núi đá vôi Vườn quốc gia Phong Nha – Kẽ Bàng”, ThS. Nguyễn Thị Hồng Tình báo cáo chuyên đề “Đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Vườn quốc gia Vũ Quang”.
Trong báo cáo “Chất lượng môi trường nước ở các thủy vực vùng núi đá vôi Vườn quốc gia Phong Nha – Kẽ Bàng”, tác giả đã tổ chức lấy mẫu, phân tích 11 chỉ tiêu thủy lí hóa sinh ở môi trường nước các thủy vực vùng núi đá vôi ở Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chất lượng môi trường nước ở các thủy vực nghiên cứu có hiện trạng tốt; các chỉ tiêu môi trường nước đều thể hiện sự sai khác giữa các loại hình thủy vực đặc biệt là giữa các thủy vực trên mặt đất và các thủy vực ngầm trong hang động phản ánh tính chất sai khác về nguồn gốc điều kiện thủy văn, địa hình và vi khí hậu của các loại hình thủy vực này.
TS. Lê Danh Minh báo cáo chuyên đề “Chất lượng môi trường nước ở các thủy vực vùng núi đá vôi Vườn quốc gia Phong Nha – Kẽ Bàng”
ThS. Nguyễn Thị Hồng Tình báo cáo chuyên đề “Đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Vườn quốc gia Vũ Quang”
Trong báo cáo của mình, ThS. Nguyễn Thị Hồng Tình trên cơ sở Phương pháp thang điểm tổng hợp và mô hình SWOT đã đánh giá tiềm năng, đánh giá hiện trạng, đưa ra các định hướng và một số giải pháp nhằm khai thác tiềm năng phát triển du lịch sinh thái vườn quốc gia Vũ Quang. Sau mỗi báo cáo, các thành viên của nhóm đều thảo luận, phân tích và góp ý để báo cáo hoàn thiện hơn.
ThS. Nguyễn Thị Hồng Tình báo cáo chuyên đề “Đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Vườn quốc gia Vũ Quang”
Đây là sinh hoạt chuyên môn định kỳ hàng tháng của tổ nhằm trao đổi chuyên môn, tài liệu học tập giảng dạy của các giảng viên góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu, kết nối giữa các giảng viên trong Bộ môn.
Trong những năm gần đây, nghệ thuật Quảng cáo không còn rập khuôn cách nhìn, cách biểu hiện hiện thực trên mặt phẳng (2D) mà chuyển sang giai đoạn phát triển nhiều cách biểu hiện khác nhau của 3D, 4D; chất liệu và công nghệ ánh sáng. Đây là sự ảnh hưởng tự nhiên của nghệ thuật đương đại trong thiết kế quảng cáo.
Quảng cáo (thương mại) là một hoạt động truyền thông, để người tiêu dùng nhận biết, quan tâm tới sản phẩm, thương hiệu cũng như cách thức sử dụng sản phẩm. Trong bối cảnh xã hội phát triển về mọi mặt, tinh thần hội nhập toàn cầu sâu rộng, đời sống con người từng bước được nâng lên…là những lý do chính tạo nên sự phát triển và biến đổi về thẩm mỹ của nghệ thuật quảng cáo hiện nay. Sự đòi hỏi những mặt hàng ra đời phải tốt về chất lượng, đẹp về hình thức, hiệu quả trong sử dụng…khiến cho nhà thiết kế quảng cáo phải luôn sáng tạo, để tìm ra ý tưởng và biểu đạt chúng sao cho chuyển tải hết các thông điệp của nhà sản xuất một cách ấn tượng nhất.
Có thể nhận thấy xu hướng thiết kế quảng cáo hiện nay đang khai thác triệt để các đặc trưng của Nghệ thuật đương đại (Sắp đặt, Trình diễn, Video art, v.v…). Đó là sự đột phá, cách gây sốc; sự tương tác của khách thể với tác phẩm trong sự ứng dụng kỹ thuật, công nghệ. Mặc cho các tranh luận về việc phân loại các tác phẩm theo các xu hướng đương đại là nghệ thuật hay phi nghệ thuật, thì trong thiết kế quảng cáo hiện nay vẫn khai thác triệt để tính cấp tiến của những xu hướng đó. Những nhu cầu của văn minh nghe, nhìn, chạm đã đặt ra yêu cầu quảng cáo phải mang tính thời đại, gắn chặt với cuộc sống và dự báo tương lai; phải ấn tượng, hấp dẫn và có thông điệp. Tư duy thiết kế quảng cáo hiện nay phần nhiều là cảm hứng được tiếp nhận cởi mở nhưng có chọn lọc từ Nghệ thuật đương đại.
+Vận dụng nghệ thuật Sắp đặt (Installation art): Là sự xếp đặt đối tượng trong một giới hạn không gian, kết hợp nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau, có thể cả âm thanh, trình diễn, tác động ánh sáng, trình chiếu.v.v; cốt tạo ra một không gian ý tưởng của người nghệ sỹ đang được xem là tích cực nhất của xu hướng quảng cáo hiện nay. Sắp đặt có thể hình dung như cuộc chơi ngẫu nhiên của những vật thể - các vật thể trở thành nguyên liệu. Vật thể ở đây được hiểu như các vật phẩm trung gian có sẵn, được sử dụng sắp đặt với hình thái tự nhiên, mà người họa sỹ thiết kế nhanh chóng chụp bắt được ở một thời điểm đó. Có thể nêu ra ba đặc trưng cơ bản đã ảnh hưởng đến thiết kế quảng cáo mà ta thấy rõ nhất đó là:
- Dàn dựng một không gian đầy ắp ý tưởng. Đặc điểm này đã được ứng dụng rộng rãi, đó là sự trưng bày sản phẩm nhằm lôi cuốn người xem tại các không gian công cộng, trong các cửa hiệu; nhất là tại các siêu thị, trung tâm thương mại hay sân bay v.v.
- Tính tự nhiên (sự sắp xếp có tính toán cho những vật thể, tác động khách quan tạo nên sự thành công cho ý tưởng). Đặc tính này tạo sự thú vị từ sự ngẫu nhiên có tính toán trong thiết kế. Ví dụ về thiết kế poster quảng cáo sản phẩm của McDonald’s: Sundial (Đồng hồ mặt trời), sự thú vị ở chỗ chọn vị trí sao cho khi tương tác với hướng chuyển dịch ánh sáng và bóng đổ của mặt trời tạo nên hiệu ứng thú vị; McDonald’s đã thành công với thông điệp ngầm quảng cáo bất cứ thời điểm nào cũng có món ngon cho khách hàng thưởng thức.
- Tính thời điểm (sự nhanh chóng 'chụp bắt' hoặc tương tác). Các nhà quảng cáo khai thác tính chất sắp đặt bất ngờ để cho đối tượng (người tiêu dùng) tự ý tác động vào không gian sáng tạo một cách tự nhiên. Ví dụ về poster quảng cáo đèn cảm ứng tại vỉa hè đi bộ, khách thể bị gây chú ý bởi tín hiệu đèn phát sáng ngay thời điểm đặt chân đã được định sẵn.
+Vận dụng Nghệ thuật Trình diễn (Performace art): Nghệ thuật Trình diễn cho phép người nghệ sĩ phá bỏ ranh giới của mọi thể thức từ hội họa, âm nhạc đến sân khấu, phim ảnh để phục vụ cho một ý tưởng nghệ thuật có tính tổng hợp. Do đó, ý nghĩa của tác phẩm không còn là bề mặt thưởng ngoạn mà trở thành một không gian thưởng ngoạn. Ở đây, người sáng tạo trực tiếp truyền đạt những thông điệp nghệ thuật bằng hành động, người xem được "đối diện với các vấn đề của cuộc sống” - giống như cách của báo chí, truyền hình. Sự diễn đạt nội dung ý tưởng bằng ngôn ngữ cơ thể giúp người nghệ sĩ có thể diễn đạt sâu sắc, ngắn gọn và trực tiếp nhất ý tưởng, nội dung quảng cáo. Ví dụ, màn đi xe trên dây của một thanh để quảng cáo cho hãng kẹo Singum coolair; sự đài các, kiêu sa của “người đẹp” bên những chiếc xe hơi, mô tô đã làm cho những sản phẩm này thêm sang trọng, hấp dẫn; gần đây, loạt poster về chủ đề bảo vệ động vật hoang dã đã rất thành công khi hình ảnh những con vật được tạo hình ngay từ cơ thể con người.v.v…
+Vận dung Nghệ thuật Trình chiếu (video art): Video art là một đóng góp ý tưởng vượt bậc cho ngành thiết kế quảng cáo. Mặc dù được xem là nghệ thuật có tính phi thương mại, tuy nhiên với kết cấu của tác phẩm Video art có hướng mở hơn, có thể sử dụng nhiều thủ pháp kỹ thuật phụ trợ bên ngoài, cộng thêm sự phối hợp các loại hình nghệ thuật khác; kết hợp không gian, thời gian để đưa ra một thông điệp nào đó, nhằm gợi mở, liên tưởng. Mặt khác, vận dụng Video art trong quảng cáo cho ta cảm giác trực tiếp và gần gũi hơn; hình ảnh mới và tự nhiên hơn khi tác động lên người xem. Chúng được trình chiếu trong các sự kiện hay các kênh truyền thông chỉ với khoảng thời gian rất ngắn, nhưng sức lan tỏa của nó giúp đưa thông điệp đến công chúng một cách nhanh nhất, đầy đủ và ấn tượng nhất. Hãng xe Hyundai đã rất thành công trong Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp, tháng 6 năm 2011 ở Hà Nội, khi thực hiện một poster quảng cáo cho loại xe chở rác đa năng Dongfeng Hino, bằng việc chiếu hình những thùng, đống rác lên màn và những hình đó rơi gọn vào thùng xe thực.
Thiết kế quảng cáo đã tác động mạnh đến những giác quan của con người, những cảm hứng từ nghệ thuật đương đại đã góp phần đưa quảng cáo đến với nhiều dạng thức, từ nổi khối-3D, đến cảm nhận, tương tác-4D, đã tạo hiệu ứng bất ngờ cho khách hàng, người xem. Quảng cáo sẽ vẫn tiếp tục thay đổi cho phù hợp với thị hiếu đương thời. Do đó, nhu cầu vượt ra khỏi giới hạn không gian là mặt phẳng để tìm đến những không gian biểu hiện mới rộng rãi hơn, cởi mở và hiệu quả hơn là tất yếu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO