foto1 foto2 foto3 foto4 foto5


+84 0393.885.127
khoasp@htu.edu.vn

Khoa Sư phạm

Trường Đại học Hà Tĩnh

a. Đặt vấn đề

Thực tế giảng dạy nhiều năm ở bậc trung học phổ thông, tôi nhận thấy học sinh gặp khá nhiều khó khăn khi học một số kiến thức ở những chương đầu của hóa học lớp 10. Một phần có lẽ vì mới bước vào một cấp học mới, phần khác là kiến thức của các chương về cấu tạo nguyên tử, bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học là mảng kiến thức trừu tượng, học sinh khó hình dung. Vì vậy, việc phân tích những lỗi sai các em thường gặp phải và sửa chữa những sai lầm đó là việc rất quan trọng, giúp học sinh nắm vững kiến thức của những chương đầu của lớp 10, tạo nền tảng tốt cho việc học tập môn Hóa học từ đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Hóa học ở trường phổ thông.

b. Nội dung

1. Dạng bài tập viết cấu hình electron nguyên tử, ion

a. Viết cấu hình electron của nguyên tử

Đối với dạng bài tập này học sinh thường quên cách viết cấu hình electron của electron của các nguyên tử nguyên tố nhóm B. Cách viết đúng là:

       Bước 1: Điền electron theo thứ tự mức năng lượng:

               1s2s2p3s3p4s3d4p…

       Bước 2: Sắp xếp lại cấu hình electron theo thứ tự lớp:

               1s2s2p3s3p3d4s4p...

       Ví dụ 1: Viết cấu hình electron nguyên tử Fe (Z = 26):

              Cấu hình electron sai: 1s22s22p63s23p64s23d6

    Cấu hình electron đúng: 1s22s22p63s23p63d64s2

      Chú ý: 24Cr: 1s22s22p63s23p63d54s1

               29Cu: 1s22s22p63s23p63d104s1

b. Viết cấu hình electron của ion từ cấu hình electron của nguyên tử tạo ion đó

Sai : Bớt electron lần lượt từ mức năng lượng cao xuống năng lượng thấp.

Đúng: Bớt electron lần lượt từ phân lớp ngoài cùng vào các phân lớp bên trong.

            Ví dụ 2:  + Viết cấu hình electron của ion Fe2+:

Sai: Bớt 2 electron ở phân lớp 3d6: 1s22s22p63s23p63d44s2

Đúng: Bớt 2 electron ở phân lớp 4s2: 1s22s22p63s23p63d6

             + Cấu hình electron của ion Fe3+:

            Sai: Bớt 2 electron ở phân lớp 3d6: 1s22s22p63s23p63d34s2

             Đúng: Bớt 2 electron ở phân lớp 4s2, 1 eletron ở phân lớp 3d6

                          → 1s22s22p63s23p63d5

Ví dụ 3: Một ion M3+ có tổng số hạt proton, neutron, electron là 79, trong đó số hạt mang điện nhiều hơn số hạt không mang điện là 19. Cấu hình electron của nguyên tử M là:

  1. [Ar]3d54s1 B. [Ar]3d64s2                C. [Ar]4s23d6                D. [Ar]3d8

     Lỗi sai học sinh thường gặp:

1. Nhầm lẫn số electron của ion M3+ bằng số electron của nguyên tử M, dẫn đến lập hệ phương trình:

T5 c QUyen 22 5 1

2. Viết thứ tự năng lượng sau đó không viết lại cấu hình electron theo thứ tự lớp → cấu hình electron : [Ar]4s23d6 → Chọn C ( sai)

3. Vi phạm việc sắp xếp electron theo thứ tự năng lượng: 3d có mức năng lượng thấp hơn 4s → điền electron vào 3d trước → Cấu hình electron: [Ar]3d8 → Chọn D(sai)

            Hướng dẫn giải:

     Ion M3+ có: Tổng số hạt p, n, e là 79 → p+ n + (e− 3) = 79

     Số hạt mang điện nhiều hơn số hạt không mang điện là 19 p + (e − 3) – n =19

T5 c QUyen 22 5 2

Cấu hình electron của M là [Ar]3d64s2

        → Đáp án B.

2. Dạng bài tập về hóa trị của nguyên tố

            Học sinh thường bị nhầm lẫn trong việc lập công thức hóa trị cao nhất của nguyên tố với oxygen, hydrogen; Không biết mối liên hệ: hóa trị cao nhất của nguyên tố trong oxit + hóa trị của nguyên tố đó trong trường hợp chất khí với hydrogen  = 8.

    Nguyên tố M thuộc nhóm xA thì:

  1. Công thức hợp chất khí với H là: MH8-x ( x = 4 → 7)
  2. Công thức oxit cao nhất là: M2Ox ( x = 1 → 7)

Ví dụ 1: Nguyên tử của nguyên tố X có cấu hình electron lớp ngoài cùng là ns2np4. Trong hợp chất khí của nguyên tố X với hydrogen, X chiếm 94,12% khối lượng. Phần trăm khối lượng của nguyên tố X trong oxide cao nhât là:

  1. 50% B. 25%                          C. 60%                          D. 40%

     Lỗi sai học sinh thường gặp:

T5 c QUyen 22 5 3

     → Đáp án D.

Ví dụ 2: Công thức phân tử của hợp chất khí tạo bởi nguyên tố R và hydrogen là RH3. Trong oxide mà R có hóa trị cao nhất thì oxygen chiếm 74,07% về khối lượng. Nguyên tố R là:

  1. S                         B. As                             C. N                              D. P

     Lỗi sai học sinh thường gặp:

T5 c QUyen 22 5 4

T5 c QUyen 22 5 53. Dạng bài tập tìm nguyên tố ở nhóm, chu kì kế tiếp

 Học sinh cần nắm vững lý thuyết:

+ Sự chênh lệch số proton trong nguyên tử của X,

+  X và Y là hai nguyên tố thuộc cùng một chu kì, hai nhóm A liên tiếp

 * Trường hợp 1: X, Y thuộc cùng một chu kì nhỏ 1, 2, 3: Py – Px =1

* Trường hợp 2: X, Y thuộc cùng một chu kì lớn 4, 5, 6, 7: Py – Px =11

+ Hai nguyên tố cùng nhóm A, thuộc hai chu kì kế tiếp

  * Trường hợp 1: X thuộc cùng một chu kì nhỏ 1, 2: Py – Px =8

 * Trường hợp 2: X, Y thuộc cùng một chu kì lớn 3, 4: Py – Px =18

Nhầm lẫn: Học sinh thường bỏ quên trường hợp thứ hai ở cả 2 dạng bài tập trên

Ví dụ 1: Hai nguyên tố X và Y cùng thuộc một chu kì trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, X thuộc nhóm IIA, Y thuộc nhóm IIIA, (Zx + Zy = 51). Phát biểu nào sau đây đúng

  1. Kim loại X không khử được Cu2+ trong dung dịch.
  2. Hợp chất oxide của X có dạng X2­­O7.
  3. Trong nguyên tử nguyên tố X có 25 proton.
  4. Ở nhiệt độ thường X không khử được H2O.

     Lỗi sai học sinh thường gặp:

  1. Nếu chỉ xét trường hợp 1 thì X là Mn, Y là Fe → Hợp chất với oxygen của X có dạng X2O7 → Chọn B
  2. Nếu chỉ xét trường hợp 1 thì Px = 25 → Chọn C
  3. Nếu chỉ xét trường hợp 1 thì : X là Mn (là kim loại hoạt động trung bình)

     X không khử được nước  → Chọn D

     Hướng dẫn giải

     TH1: Nếu X, Y thuộc chu kì 2, 3

T5 c QUyen 22 5 6

→ Ca không khử được ion Cu2+ trong dung dịch.

     → Đáp án A

c. Kết luận

     Từ một số ví dụ đã nêu trên tôi nhận thấy sự nhầm lẫn, sai sót của học sinh chủ yếu do không nắm vững lí thuyết chương Nguyên tử và Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Việc chỉ ra những sai lầm đó giúp các em khắc sâu hơn lí thuyết  đã học từ đó vận dụng lí thuyết một cách linh hoạt để giải đúng, giải nhanh bài tập hóa học chương I, chương II hóa học lớp 10.

            TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Sách giáo khoa hóa học lớp 10.Bộ sách Cánh diều. NXB ĐH sư phạm.

[2]. Sách giáo khoa hóa học lớp 10. Bộ sách Kết nối tri thức và cuộc sống

[3]. Sách giáo khoa hóa học lớp 10. Bộ sách Chân trời sáng tạo.

[4]. Sách nâng cao hóa học 10, Nxb Giáo dục.

[5]. Đề thi THPT Quốc Gia.

Tìm hiểu về cách thể hiện khái niệm số thập phân trong các bộ sách giáo khoa môn toán lớp 5 theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018

 INVESTIGATING THE PRESENTATION OF DECIMAL CONCEPTS IN 5TH-GRADE MATHEMATICS TEXTBOOKS UNDER THE 2018 GENERAL EDUCATION CURRICULUM

 Nguyễn Thị Minh Hưng

Lê Nguyễn Khánh Vy

Khoa Sư phạm- Trường Đại học Hà Tĩnh

Tóm tắt

Số thập phân là một khái niệm trong toán học, đóng vai trò quan trọng trong việc biểu diễn và thực hiện các phép toán với các giá trị không nguyên. Trong bài viết này chúng tôi đề cập đến cách tiếp cận khái niệm số thập phân và cách trình bày khái niệm số thập phân trong các bộ sách giáo khoa Toán lớp 5 theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

Từ khóa: Phân số thập phân, số thập phân, số hữu tỉ.

Abstract:Decimals is a fundamental mathematical concept, playing a crucial role in representing and performing operations with non-integer values. This article mentions a way to approach decimal concepts and how they are presented in 5th-grade Mathematics textbooks under Vietnam’s 2018 General Education Curriculum.

Keywords: Decimal fractions, decimal numbers, rational numbers

1. Đặt vấn đề

Ở mạch kiến thức Số và phép tính trong chương trình môn Toán ở tiểu học, số thập phân là nội dung tiếp nối sau nội dung về phân số. Số thập phân là một nội dung quan trọng, chiếm thời lượng lớn trong chương trình môn Toán lớp 5. Theo chương trình Giáo dục phổ thông 2018 [3], nội dung về số thập phân trong chương trình lớp 5 bao gồm khái niệm số thập phân, so sánh số thập phân, làm tròn số thập phân, các phép tính với số thập phân và tỉ số, tỉ số phần trăm.

Có 5 bộ sách giáo khoa (SGK) môn Toán lớp 5 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt theo Quyết định số 4119/ QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 12 năm 2023 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo [1] và Quyết định số 392/QĐ- BGDĐT ngày 26 tháng 01 năm 2024 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo [2]. Trong các bộ sách này, cách tiếp cận khái niệm số thập phân không hoàn toàn giống nhau; có quan điểm xuất phát từ nhu cầu biểu diễn các số đo đại lượng, có quan điểm xuất phát từ phân số thập phân. Trong nội dung bài báo này, chúng tôi phân tích các quan điểm tiếp cận khái niệm số thập phân và sự thể hiện quan điểm đó trong một số bộ SGK  môn Toán lớp 5 theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Các cách định nghĩa khái niệm số thập phân

Khái niệm số thập phân được định nghĩa theo các cách sau:

T5 Hung1 11 5 1

T5 Hung1 11 5 2

2.2. Các cách tiếp cận khái niệm số thập phân trong các bộ SGK môn Toán lớp 5

Theo các Quyết định số 4119/ QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 12 năm 2023 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quyết định số 392/QĐ- BGDĐT ngày 26 tháng 01 năm 2024 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, môn Toán lớp 5 có năm bộ SGK được phê duyệt bao gồm: bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, bộ sách Chân trời sáng tạo, bộ sách Cánh Diều, bộ sách Bình Minh và bộ sách Cùng khám phá. Trong năm bộ sách này, khái niệm số thập phân được hình thành theo một số quan điểm đã trình bày trong mục 2.1.

Việc mở rộng hệ thống số từ số tự nhiên, phân số sang số thập phân được thực hiện nhằm giải quyết các nhu cầu thực tiễn và lý thuyết trong toán học. Số thập phân ra đời để biểu diễn các giá trị không thể biểu diễn chính xác bằng số tự nhiên, đồng thời hỗ trợ việc đo lường và tính toán chính xác hơn. Quá trình mở rộng này không chỉ giải quyết được các vấn đề thực tế như đo lường (ví dụ: đo chiều dài, cân nặng, tiền tệ, ...) mà còn giải quyết được nhu cầu nội tại của toán học, nhằm đảm bảo các phép tính (như phép chia) luôn có kết quả trong một tập hợp số khép kín, hoặc để biểu diễn các phân số với hình thức gọn hơn, dễ sử dụng hơn trong tính toán.

Trong năm bộ SGK đã được Bộ giáo dục và Đào tạo phê duyệt, việc hình thành khái  niệm số thập phân được trình bày xuất phát từ hai nhóm tình huống:

Nhóm thứ nhất: Dựa trên các phân số thập phân

Các bộ sách Cánh Diều, Chân trời sáng tạo, Bình Minh trình bày khái niệm số thập phân theo quan điểm là một cách viết khác của phân số thập phân.

Theo phương pháp này, nếu phân số nhỏ hơn 1, phần nguyên của số thập phân sẽ là 0, còn phần thập phân chính là tử số của phân số đó. Đối với các phân số lớn hơn 1, ta có thể chuyển phân số đó thành hỗn số có chứa phân số thập phân, trong đó phần nguyên của hỗn số chính là phần nguyên của số thập phân, còn phần thập phân sẽ tương ứng với tử số của phần phân số thập phân trong hỗn số đó.

T5 Hung1 11 5 3

Học sinh đã được định nghĩa phân số thập phân là các phân số có mẫu số là 10, 100, 1 000, ... Trong phần luyện tập, SGK đã đề cập đến cách chuyển một phân số thành phân số thập phân ở bài tập 3. Còn ở trò chơi “Ghép thẻ” trong bài tập 4, SGK lại đưa ra hoạt động ghép cặp các thẻ ghi phân số thập phân với các thẻ ghi hỗn số. Hoạt động này giúp học sinh củng cố được khái niệm phân số thập phân và hỗn số nhằm tạo tiền đề để hình thành khái niệm số thập phân ở Bài 13- “Số thập phân”.

T5 Hung1 11 5 4

Sau khi hình thành khái niệm số thập phân SGK giới thiệu cấu tạo số thập phân bao gồm phần nguyên và phần thập phân được phân cách bởi dấu phẩy. Những chữ số ở bên trái dấu phẩy thuộc về phần nguyên, những chữ số ở bên phải dấu phẩy thuộc về phần thập phân. Chẳng hạn số thập phân 0,3, bao gồm 0 là phần nguyên, 3 là phần thập phân (hàng phần mười). Trong các Bài 14, 15, 16 tiếp tục giới thiệu các phân số có phần nguyên đến hàng trăm, phần thập phân đến hàng phần nghìn.

Tương tự như ở bộ sách Cánh Diều, các bộ sách Chân trời sáng tạo và Bình Minh cũng giới thiệu khái niệm số thập phân theo quan điểm là một cách viết của phân số thập phân và bổ sung thêm là cách viết khác của hỗn số có chứa phân số thập phân.

T5 Hung1 11 5 5

T5 Hung1 11 5 6

Bài học giúp học sinh thấy rằng phân số thập phân, hỗn số có chứa phân số thập phân đều có thể viết thành số thập phân, số thập phân là cách viết gọn hơn của phân số thập phân, giúp biểu diễn trực quan hơn các phần nhỏ hơn của một đơn vị.

Ở cả ba bộ sách Cánh Diều, Chân trời sáng tạo và Bình Minh mặc dù quan điểm hình thành khái niệm số thập phân xuất phát từ phân số thập phân nhưng đều đề cập đến sự xuất hiện số thập phân trong việc chuyển đổi giữa các đơn vị đo lường của một phép đo đại lượng trong các nội dung luyện tập.

Tóm lại, cả ba bộ sách Cánh Diều, Chân trời sáng tạo và Bình Minh đều giới thiệu khái niệm số thập phân là một cách viết khác của phân số thập phân, của hỗn số có chứa phân số thập phân. Với cách tiếp cận này, học sinh đã được học về phân số, phân số thập phân, hỗn số do đó việc hình thành khái niệm số thập phân một cách khá tự nhiên, thuận lợi, dễ hiểu. Cách tiếp cận này giúp học sinh hiểu số thập phân không phải là một khái niệm xa lạ, mà xuất phát từ chính những phân số, hỗn số quen thuộc.

Nhóm thứ hai: Xuất phát từ việc biểu diễn các số đo đại lượng.

Theo cách này, số thập phân thể hiện sự chuyển đổi giữa các đơn vị đo có mối quan hệ gấp 10, 100, .. lần. Ví dụ, trong phép đo độ dài gồm các đơn vị như km, hm, dam, m, dm, cm, mm, hoặc trong phép đo khối lượng gồm tấn, tạ, yến, kg, hg, dag, g. Trong quá trình chuyển đổi giữa các đơn vị đo của cùng một đại lượng, nếu đổi từ đơn vị đo “lớn hơn” sang đơn vị đo “bé hơn” thì ta được một số tự nhiên nhưng nếu chuyển đổi ngược lại thì kết quả chính là một phân số thập phân và ta có thể viết phân số thập phân đó dưới một hình thức mới, đó chính là “Số thập phân”.

Các bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống và bộ sách Cùng khám phá đều giới thiệu khái niệm Số thập phân theo con đường này. Bên cạnh đó, cách tiếp cận này còn này nhấn mạnh việc số thập phân được hình thành từ nhu cầu đo lường chính xác các đại lượng (như chiều dài, khối lượng, …) từ đó thấy được tính ứng dụng của số thập phân trong đời sống.

SGK toán 5 tập 1- bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trong Bài 10 “Khái niệm số thập phân”,  xuất phát từ tình huống Việt đo được chiều cao của em Mi là 118cm và của Rô-bốt là 9dm, các bạn Nam, Việt, Mai muốn ghi chiều cao của em Mi và Rô-bốt theo đơn vị mét thì phải viết như thế nào? Rô-bốt gợi ý cách viết đúng là viết dưới dạng số thập phân. Từ đó gợi mở cho học sinh nhu cầu tìm hiểu số thập phân là gì?

T5 Hung1 11 5 7

Sau khi hình giới thiệu số thập phân thì SGK cũng trình bày “Mỗi số thập phân gồm hai phần: phần nguyên và phần thập phân, chúng được phân cách bởi dấu phẩy”.

Mặc dù hình thành số thập phân từ nhu cầu chuyển đổi giữa các đơn vị đo của cùng một đại lượng, tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng trước khi ghi các số đo đại lượng dưới dạng số thập phân thì các số đo đó được viết dưới dạng phân số thập phân hoặc hỗn số có chứa phân số thập phân. Trong bài tập 1 ở bài 10, sách Toán 5 tập 1- bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống đưa ra yêu cầu “Nêu số thập phân thích hợp với mỗi vạch của tia số” mà không có đơn vi đo cho học sinh nhận thấy rằng bản chất  số thập phân là một cách viết khác của phân số thập phân. Mỗi điểm cho trước trên tia số đều có thể biểu diễn được bằng hai cách đó là phân số thập phân hoặc số thập phân.

T5 Hung1 11 5 8

T5 Hung1 11 5 9

T5 Hung1 11 5 10

Cũng giống như ở bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, ở bộ sách Cùng khám phá đã hình thành số thập phân thông qua việc chuyển đổi từ đơn vị đo “nhỏ hơn” sang đơn vị đo “lớn hơn” trong một phép đo đại lượng, bằng bước chuyển trung gian là phân số thập phân hoặc là hỗn số có chứa phân số thập phân. Cách tiếp cận ở hai bộ sách này tương đối giống nhau.

Trong cả năm bộ SGK Toán 5 sau khi hình thành khái niệm ban đầu về số thập phân thì  đều trình bày cấu tạo thập phân của số theo các hàng. Cách xác định hàng ở số thập phân được tính bắt đầu từ dấu phẩy. Đối với phần nguyên, tính từ phải sang trái là hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, …, đối với phần thập phân tính từ trái sang phải là hàng phần mười, hàng phần trăm, hàng phần nghìn, …. Mỗi đơn vị của một hàng bằng 10 đơn vị của hàng thấp hơn liền sau; mỗi đơn vị của một hàng bằng 0,1 đơn vị của hàng cao hơn liền trước. Đây chính là cách định nghĩa số thập phân là một dạng ghi số trong hệ đếm thập phân.

3. Kết luận

Như vậy trong năm bộ SGK Toán lớp 5 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, có ba bộ sách hình thành khái niệm số thập phân trên cơ sở phân số thập phân là bộ sách Cánh Diều, bộ sách Chân trời sáng tạo và bộ sách Bình Minh. Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống và bộ sách Cùng khám phá hình thành khái niệm số thập phân thông qua việc chuyển đổi đơn vị đo lường của một phép đo đại lượng. Tuy nhiên ở cách tiếp cận thứ hai này thì cũng phải chuyển đổi các số đo đại lượng thành các phân số thập phân hoặc hỗn số có chứa phân số thập phân. Điều này cho chúng ta thấy bản chất cốt lõi của số thập phân chính là phân số thập phân. Đây là cách giới thiệu khái niệm số thập phân hoàn toàn phù hợp với nội dung và yêu cầu cần đạt của chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2023), Quyết định số 4119/ QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 12 năm 2023, Phê duyệt sách giáo khoa các môn học, hoạt động giáo dục lớp 5 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông.

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2024), Quyết định số 392/QĐ- BGDĐT ngày 26 tháng 01 năm 2024 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phê duyệt sách giáo khoa các môn học, hoạt động giáo dục lớp 5 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông.

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông môn Toán.

[4] Trần Nam Dũng (Tổng chủ biên), Khúc Thành Chính (Chủ biên), Đinh Thị Xuân Dung, Nguyễn Kính Đức, Đậu Thị Huế, Đinh Thị Kim Lan, Huỳnh Thị Kim Trang (2023), Toán 5 (tập 1) – Bộ sách Chân trời sáng tạo, Nxb Giáo dục Việt Nam.

[5] Trần Diên Hiển (Chủ biên), Nguyễn Đình Khuê, Đào Thái Lai, Nguyễn Thị Kiều Oanh, Phạm Thanh Tâm, Nguyễn Thúy Vân (2023), Toán 5 (tập 1)– Bộ sách Bình Minh, Nxb Đại học Vinh.

[6] Hà Huy Khoái (Tổng chủ biên), Lê Anh Vinh (Chủ biên), Nguyễn Áng, Vũ Văn Dương, Nguyễn Minh Hải, Hoàng Quế Hường, Bùi Bá Mạnh (2023), Toán 5 (tập 1) – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Nxb Giáo dục Việt Nam.

[7] Đỗ Đức Thái (Tổng chủ biên), Đỗ Tiến Đạt (Chủ biên), Nguyễn Hoài Anh, Trần Thuý Ngà, Nguyễn Thị Thanh Sơn (2023), Toán 5 (tập 1)– Bộ sách Cánh Diều, Nxb Đại học Sư phạm.

[8] Phan Doãn Thoại (Tổng chủ biên kiêm chủ biên), Nguyễn Phương Anh (2024), Toán 5 (tập 1) – Bộ sách Cùng khám phá, Nxb Đại học Huế.

1. Nói về tầm vóc của Truyện Kiều, dù khuôn sáo thì chúng ta cũng không thể không nhắc đến nhận xét hết sức giá trị của học giả Phạm Quỳnh (1892-1945) “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”. Nhận xét ấy, đã kết luận thay hàng trăm ý kiến ngợi khen của độc giả về tầm vóc, giá trị, ảnh hưởng, vị trí và nhất là sức sống của Truyện Kiều. Đến nay, sau hơn 200 năm Truyện Kiều ra đời, và sau cả năm từ nhận định của tác giả Phạm Quỳnh, chúng ta một lần nữa khẳng định Truyện Kiều sẽ mãi trường tồn cùng với sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.

Không chỉ trường tồn cùng với dân tộc, Truyện Kiều đã vươn mình ra thế giới với gần một trăm bản dịch bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Trở thành học liệu học tập, giảng dạy trong trường học của nhiều quốc gia. Là tư liệu cho các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa, văn chương trên diễn đàn nghiên cứu thế giới.

T1 a Loan 22 1 1

2. Là kiệt tác hết sức đặc biệt, Truyện Kiều vừa mang tính văn chương bác học, vừa mang tính phổ cập bình dân, vì thế được đông đảo quần chúng hơn hai thế kỷ qua nồng nhiệt đón nhận. Truyện Kiều đã trở thành một loại hình văn hóa phổ dụng, là hồn cốt của dân tộc. “Với Truyện Kiều, chúng ta chứng kiến một hành trình đặc biệt: tác phẩm đi từ không gian hẹp của đời sống văn hóa cao cấp (thi phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, thi nhân tiêu biểu quốc gia, quan lại triều đình, nhà văn hóa tầm quốc tế) đến một không gian rộng hơn của đời sống văn hóa bình dân (đông đảo người dân lao động, những người không được học hành, thậm chí không biết chữ”. Sở dĩ Truyện Kiều tạo ra được trường văn hóa phổ dụng đó vì mọi góc độ, mọi khía cạnh của cuộc sống đều xuất hiện trong Truyện Kiều. Hay nói cách khác, Truyện Kiều đã bao chứa trong mình tất cả mọi mặt của đời sống mà mỗi người dân Việt Nam đều có thể trải nghiệm như là cuộc sống thực. “Ít có nhà thơ nào trên thế giới có khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong dân chúng của mình như Nguyễn Du ở Việt Nam. truyện Kiều của ông là cuốn sách kinh điển của văn chương Việt Nam nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết, không có ai là ngoại lệ” (Georges Boudarel). “ Người dân Việt Nam bất kì thuộc về tầng lớp nào, không ai là không thích nghe kể Truyện Kiều, ngâm Kiều, lẩy Kiều. Người ta nhớ lấy từng câu, từng đoạn và dẫn dụng vào câu chuyện hằng ngày, khi nói đến nhân tình thế thái.”(GS Đặng Thai Mai).

3.  Có thể khẳng định, Truyện Kiều là bộ Bách khoa thư của đời sống Việt Nam, với  các mặt ngôn ngữ, văn hóa, văn chương, phong tục, tín ngưỡng, lễ hội, cưới gả, quan trường, ẩm thực, trang phục, âm nhạc, hội họa, sân khấu, cỏ cây, hoa lá…

Phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học là một nội dung quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.Với bộ môn âm nhạc ở trường Trung học cơ sở, dạy hát có vị trí quan trọng vì: thông qua học hát, các em được giáo dục về âm nhạc để nâng cao năng lực cảm thụ và thẩm mỹ âm nhạc ở mức độ cần thiết theo mục tiêu chung của môn học. Học sinh Trung học cơ sở là lứa tuổi nhạy cảm, hiếu động, ham thích ca hát. Nếu giáo viên gây được hứng thú trong bài dạy sẽ tạo cho học sinh sự phấn chấn, hào hứng để tiêp thu bài học một cách có hiệu quả và tích cực hơn trong việc học tập bộ môn âm nhạc.

Việc dạy âm nhạc ở trường Trung học cơ sở mặc dù không nhằm đào tạo các em thành những con người hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp mà chủ yếu là giáo dục văn hoá âm nhạc, làm cho các em yêu thích nghệ thuật âm nhạc, hình thành ở học sinh một tâm hồn trong sáng, một thị hiếu âm nhạc lành mạnh, cách tư duy sắc sảo, lòng khát khao sáng tạo, giàu tình cảm, nhanh nhẹn hoạt bát và sống vui tươi. Âm nhạc phát triển tối đa những tố chất sinh lý, những phẩm chất tâm lý của lứa tuổi học sinh, tạo điều để các em hoàn chỉnh và cân đối về tâm hồn, trí tuệ và thể chất, làm phong phú tình cảm của lứa tuổi học trò.

Tính tích cực trong dạy hát cần được xác định cụ thể thông qua các hoạt động của thầy và trò, cho nên người giáo viên phải biết để có thể vận dụng vào trong các tiết dạy của mình nhằm đạt hiệu quả giảng dạy cao nhất. Tuy nhiên để phát huy được tác dụng và ý nghĩa của giờ học hát đòi hỏi phải có sự phối hợp và tương tác của nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là thu hút được sự tham gia học tập của học sinh là rất quan trọng.

Âm nhạc là môn học bắt buộc ở bậc Trung học cơ sở. Ở đây môn âm nhạc không phải là đào tạo các em thành những ca sỹ, nhạc sĩ, mà chủ yếu nhằm trang bị cho các em có một trình độ văn hóa âm nhạc tối thiểu, và hình thành thị hiếu thẩm mĩ, rèn luyện các em thành những con người phát triển toàn diện về “đức, trí, thể, mĩ”.

Dạy hát là một quá trình giáo dục âm nhạc bao gồm: luyện giọng, học bài hát, luyện tai nghe và ghi nhớ âm điệu, lại có thể kết hợp với việc tập biểu diễn, kết hợp bài hát với vận động phụ họa hoặc làm động tác kết hợp. Giáo viên cần những biện pháp linh hoạt để thu hút sự chú ý của học sinh, để các em được nghe, được luyện tập, thực hành, và tổ chức cho các em hoạt động tự biểu diễn, tạo nên giờ học nhẹ nhàng, vui tươi, sinh động, lôi cuốn và có hiệu quả.

Trong chương trình âm nhạc Trung học cơ sở, môn âm nhạc gồm 3 phân môn: học hát, nhạc lí – tập đọc nhạc, âm nhạc thường thức. Học hát là một hoạt động chiếm nhiều thời lượng nhất của tiết học. Thông thường, mỗi bài hát được dạy trong một tiết, sau đó được ôn tập trong một hoặc hai tiết tiếp theo. Khi dạy một bài hát, giáo viên thường tiến hành theo các bước sau:

- Giới thiệu bài hát: Ngoài giới thiệu tên bài, tên tác giả, xuất xứ, nội dung, chủ đề…Nếu là dân ca, nên có giới thiệu về vùng, miền.

- Tìm hiểu bài: đọc lời ca, chia đoạn, chia câu: giáo viên hướng dẫn học sinh  đọc lời sau đó chia đoạn, chia câu để thuận lợi cho việc luyện tập từng câu.

- Nghe hát mẫu: giáo viên có thể tự trình bày bài hát với sự chuẩn bị chu đáo hoặc cho học sinh nghe qua băng đĩa. Khi trình bày bài hát, giáo viên cần trình bày chuẩn xác, có thể kết hợp động tác minh họa kèm theo sẽ làm cho học sinh thấy thích thú hơn. Nếu cho học sinh nghe qua băng, đĩa phải chuẩn bị cẩn thận đĩa nhạc, máy nghe tránh để học sinh chờ đợi gây ức chế tâm lí.

Việc hát mẫu cho học sinh có những ưu điểm mà người giáo viên cần khai thác như: Giúp học sinh cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn bởi cách hát của giáo viên gần gũi các em hơn so với đĩa nhạc, học sinh cảm thấy hào hứng khi nghe thầy cô hát,  thể hiện được năng lực âm nhạc và cảm xúc của giáo viên.

- Khởi động giọng: Giúp học sinh khởi động giọng trước khi tập hát. Giáo viên cho học sinh luyện theo đàn cao độ đi lên dần rồi đi xuống dần, hoặc theo mẫu do giáo viên qui định.

- Dạy hát từng câu: giáo viên đàn cho học sinh nghe và tập hát hòa giọng theo đàn. Những câu hát khó, luyến láy nhiều giáo viên cần hát mẫu vì học sinh nghe đàn không thể hiện rõ bằng nghe giọng hát. Đôi khi, giáo viên nên chỉ định học sinh giỏi hát mẫu thay cho giáo viên nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời làm cho môi trường học tập trở nên gần gũi và thân thiện hơn. Trong khi dạy từng câu, giáo viên cần cho học sinh nhận xét lẫn nhau và kết hợp sửa sai cho các em.

- Hát cả bài: giáo viên cho học sinh hát cả bài theo giai điệu của đàn, chú ý những chổ ngân, nghỉ và sửa sai cho các em, lưu ý học sinh cách phát âm, hát rõ lời và cảm xúc của bài hát, tránh gào thét đây là lỗi hay mắc phải ở giáo viên, sau đó kết hợp nhạc đệm, nhạc đệm giáo viên chuẩn bị và lưu sẳn trong đàn. Giáo viên  hướng dẫn học sinh trình bày bài hát với nhiều hình thức như đơn ca, song ca, tốp ca…

- Kết hợp gõ đệm, vận động và phụ họa: giáo viên hướng dẫn cho học sinh thực hành gõ đệm, cách gõ đệm tùy thuộc vào từng bài cụ thể.

Phần kết hợp vận động và phụ họa không đòi hỏi nhất thiết học sinh phải thực hiện thật thành thạo vì vận động và phụ họa có thể tiến hành ở tiết tiếp theo ở phần ôn tập bài hát. Tiết học hát chủ yếu học sinh biết kết hợp gõ đệm, giáo viên hướng dẫn một vài động tác cho các em làm quen với nhịp của bài ở tiết tiếp theo khi đã thuộc lời ca các em kết hợp thực hiện vận động và phụ họa dễ dàng hơn.

Để học sinh có thể chủ động hơn trong phần múa minh họa, giáo viên có thể cho học sinh tự chọn nhóm cho mình, mỗi nhóm từ 4 đến 5 em có cùng sở thích, chất giọng, cách trình bày, từ đó các em sẽ hăng hái hơn, thích thú hơn khi thể hiện  bài hát có minh họa.

- Củng cố, kiểm tra: Cho các em trình bày theo cá nhân, nhóm hoặc theo tổ, giáo viên có thể tranh thủ kiểm tra mức độ tiếp thu của các em. Tùy vào từng bài hát mà giáo viên có thể kết hợp trò chơi để giờ học thêm phong  phú sinh động hơn.

Trong các bước trên, từ bước khởi động giọng đến củng cố, kiểm tra là những công đoạn có thể phát huy tính tích cực nhiều nhất. Những công việc đó đòi hỏi học sinh phải tập trung nghe giáo viên làm mẫu và trực tiếp làm theo cho đến khi hoàn tất bài hát. Sau khi học hết bài các em cón phải luyện tập theo tổ, nhóm hoặc cá nhân. Lúc đó giáo viên lắng nghe để góp ý sửa chữa sai sót cho học sinh.

Khi dạy hát, giáo viên không nên chỉ cho học sinh nghe đàn rồi tập theo mà giáo viên nên kết hợp cả hai biện pháp: giáo viên hát mẫu và học sinh nghe đàn từng câu để tập hát. Nếu học sinh chỉ nghe đàn sẽ khó thể hiện đúng những yêu cầu của lời ca như: luyến láy, ngân giọng hoặc phát âm lời ca cho tròn tiếng và rõ lời.

Trong việc dạy và học hát đã thể hiện tính tích cực rất rõ ràng vì:

- Cả thầy và trò cùng hoạt động liên tục: thầy hướng dẫn từng câu hát, trò phải lắng nghe để ghi nhớ giai điệu rồi luyện tập để hát đúng cao độ, trường độ, hát đồng đều, hòa giọng.

- Khi tập hát có lúc cả lớp cùng thể hiện, có khi từng nhóm hát, có khi cá nhân hát.

- Nếu tập biểu diễn bài hát, các em còn phải có những động tác diễn xuất, động tác minh họa.

- Khi bạn hát, các em phải lắng nghe để có thể nhận xét bạn của mình hát đúng hay sai.

- Khi giáo viên đàn giai điệu, học sinh phải lắng nghe để cảm thụ và ghi nhớ.

- Bài hát có khi còn kết hợp với trò chơi hay đố vui để giờ học thêm phong phú, sinh động hơn.

Âm nhạc là lĩnh vực nghệ thuật của cái hay, cái đẹp qua âm thanh của giọng hát và tiếng đàn trên những bài ca, bản nhạc cụ thể. Chính nhờ cái hay, cái đẹp của nghệ thuật âm thanh mà âm nhạc đã đem đến cho con người những cảm xúc thẩm mĩ, làm cho người ta thoải mái, thích thú, tâm hồn và tình cảm được nâng cao, trí tuệ được mở rộng, con người trở nên tốt đẹp, cao thượng và hướng thiện.

Với tư cách là một môn học nghệ thuật nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ, dạy học âm nhạc, trong đó dạy hát là một nội dung quan trọng cần phải đạt được những yêu cầu sau:

- Giáo dục cho học sinh cách cảm thụ là giáo dục cách nghe, cách đánh giá hay là cách biểu lộ thái độ, tình cảm của mình về cái hay, cái đẹp trong âm nhạc.

- Giáo dục cho học sinh cách biểu cảm nhằm giúp học sinh cách tái hiện, sáng tạo khi thể hiện trình diễn bài hát.

Bài hát, bản nhạc đều là phương tiện để giáo dục âm nhạc. Đối tượng mà học sinh lĩnh hội ở đây chính là bài hát bởi cái hay, cái đẹp của chúng gắn liền với chính nội dung và hình thức của tác phẩm. Để thấy được cái hay, cái đẹp đó các em phải có những kĩ năng và tri thức cần thiết khi nghe, cảm thụ, đánh giá hoặc tái tạo khi trình diễn bài hát. Đồng thời các em phải có một thái độ tích cực, chủ động trong giờ học mới đem lại kết quả như mong muốn.

Bên cạnh đó vai trò của người giáo viên cũng rất quan trọng, học sinh có chủ động hay không, có tích cực hay không là do người giáo viên có tạo được hứng thú cho các em trong giờ học hay không. Từ khi mở bài cho đến lúc kết thúc giáo viên luôn là chủ thể sáng tạo để khơi gợi lòng ham muốn, ham học tập ở học sinh.

Muốn học sinh tích cực, trước tiên bản thân người giáo viên đó phải là người tích cực, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, sáng tạo, luôn luôn phải biết đổi mới trong những tiết dạy khác nhau và có những phương pháp dạy học thu hút, lôi kéo sự chú ý của học sinh, từ đó tiết học sẽ trở nên sinh động và sôi nổi hơn.

Khả năng phát triển của từng học sinh là khác nhau, cơ thể khác nhau, chất giọng khác nhau cho nên giáo viên không nên đòi hỏi kết quả như nhau mà phải có thái độ mềm mỏng, động viên khuyến khích các em để các em có thể tự tin, mạnh dạn thể hiện mình trước lớp, trước đám đông. Khi học sinh mắc sai lầm thì không nên la mắng, làm cho các em trở nên tự ti, mặc cảm. Đây không phải là trường dạy nhạc chuyên nghiệp, hay là trường dành cho những học sinh có năng khiếu về âm nhạc, đối tượng học âm nhạc ở đây là tất cả học sinh, do đó giáo viên không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh, không nên tạo tâm lý nặng nề cho các em khi học hát, mà hãy để các em tự thể hiện theo ý thích của mình, giáo viên cũng phải tôn trọng những ý tưởng sáng tạo của học sinh từ đó các em sẽ thích thú và hăng say hơn khi học hát.

Âm nhạc là lĩnh vực nghệ thuật của cái hay, cái đẹp, qua âm thanh của giọng hát và tiếng đàn trên những bài ca, bản nhạc cụ thể, đã đem đến cho con người những cảm xúc thẩm mĩ – thẩm mĩ âm nhạc, làm cho người ta thoải mái, thích thú, tâm hồn và tình cảm được nâng cao, trí tuệ được mở rộng, con người trở nên tốt đẹp, cao thượng và hướng thiện.

Trong quá trình dạy hát, nếu người giáo viên âm nhạc luôn có ý thức về yêu cầu giáo dục thẩm mĩ qua môn học của mình, chắc chắn rằng người giáo viên đó luôn có những suy nghĩ để cải tiến, sáng tạo làm cho giờ học thêm sinh động, hấp dẫn và mang đến cho học sinh những xúc cảm, tình cảm thẩm mĩ âm nhạc thực sự, từ đó các em sẽ có những hưng phấn, thích thú và tích cực hơn trong việc dạy và học âm nhạc nói chung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Chương trình âm nhạc THCS ( Bộ GD&ĐT ban hành 1/ 2002)
  2. Phương pháp dạy hát – Đỗ Mạnh Thường dịch- nxb. Paris.
  3. Các tài liệu bồi dưỡng giáo viên của các tác giả: Hoàng Long, Lê Minh Châu, Ngô Thị Nam.