Ngày 19/8 hàng năm không chỉ là ngày đại thắng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 hào hùng và vinh quang mà ngày 19/8 còn là ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam.
Vào ngày 19/8 của 79 năm trước (năm 1945) là cột mốc đáng nhớ của lịch sử dân tộc ta, mở ra một thời kỳ mới của đất nước. Đó là những ngày đầy hào hùng và khí thế sục sôi khi cả dân tộc cùng đứng lên hô vang khẩu hiệu đòi độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tiến lên với một niềm tin sắt đá, một ý chí kiên cường. Trong không khí rạo rực ấy, các cơ quan đầu não của Đảng ta đã họp bàn và phát lệnh Tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc. Sáng 19/8/1945, quân dân ta kéo về Nhà hát lớn Hà Nội thực hiện cuộc mít tinh với quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử và làm chủ Hà Nội nhanh chóng. Thắng lợi tại khu vực này đã trở thành động lực, tiếp thêm sức mạnh cho các cuộc đấu tranh, giải phóng ở các tỉnh thành khác.
Khi đó, lực lượng vũ trang Sở Liêm phóng ở Bắc Bộ, Sở trinh sát ở Trung Bộ, Quốc gia tự vệ cuộc ở Nam Bộ, tuy tên gọi khác nhau nhưng đều có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự. Đây cũng chính là tổ chức tiền thân của Công an nhân dân Việt Nam. Vì vậy, ngày 19/8 cũng là ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam và là ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Ngày 19/8 hằng năm đã trở thành Ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam
Như vậy, ngày 19/8 là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc ta khi đánh dấu sự thành công của cách mạng Việt Nam, đập tan sự áp bức bóc lột gần một thế kỷ của thực dân Pháp, chấm dứt chế độ phong kiến và lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và đây còn là ngày tôn vinh sự hy sinh, cống hiến của lực lượng công an nhân dân luôn đóng vai trò nòng cốt trong các cuộc chiến. Họ vừa là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc vừa có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Mỗi khi tháng Tám về, trái tim của mỗi người dân Việt Nam lại bồi hồi, xúc động khi nhớ về những ngày lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là những ngày đầy hào hùng và oai phong, khi cả dân tộc cùng nhau đứng lên, đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do và hạnh phúc.
Nhớ lại những ngày ấy, chúng ta không thể quên được khí thế sục sôi của toàn dân. Từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng đến miền núi, từ thành thị đến nông thôn, khắp nơi đều vang lên tiếng hô vang đòi độc lập, tự do. Đoàn quân cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tiến lên với một niềm tin sắt đá, một ý chí kiên cường. Trong không khí rạo rực ấy, nhân dân Hà Nội đã mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa vào ngày 19 tháng 8, rồi lan tỏa mạnh mẽ khắp cả nước, tạo nên một làn sóng cách mạng không gì có thể ngăn cản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ đánh dấu sự sụp đổ của chế độ thực dân phong kiến mà còn khẳng định sức mạnh vô song của tinh thần đoàn kết toàn dân. Đó là niềm tin và lòng quyết tâm của những người nông dân chân chất, của những người công nhân cần cù, của những thanh niên yêu nước, và của hàng triệu con tim Việt Nam cùng hòa chung một nhịp đập, cùng hướng về một mục tiêu cao cả.
Chúng ta hôm nay sống trong hòa bình, được hưởng những thành quả to lớn của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Những con đường thênh thang, những tòa nhà cao tầng, những thành tựu về khoa học kỹ thuật và giáo dục đều là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng của toàn dân. Nhưng bên cạnh niềm tự hào đó, chúng ta không thể quên đi những hy sinh to lớn của bao thế hệ cha ông. Họ đã ngã xuống cho ngày hôm nay chúng ta được đứng vững và tiếp tục xây dựng một Việt Nam hùng mạnh.
Ngày 19/8 đánh dấu sự thành công của Cách mạng Tháng Tám
Kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người đã hy sinh, mà còn tự nhắc nhở mình về trách nhiệm đối với đất nước. Trách nhiệm giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ đi trước. Cách mạng Tháng Tám không chỉ là một sự kiện lịch sử mà còn là nguồn động lực mạnh mẽ cho mỗi người dân Việt Nam. Hành trình vinh quang này đã chứng minh rằng, khi toàn dân đồng lòng, không gì là không thể. Chúng ta tự hào về quá khứ vẻ vang và quyết tâm xây dựng một tương lai rực rỡ hơn cho dân tộc, như một cách tri ân những người đã hy sinh và đóng góp cho nền độc lập, tự do của nước nhà.
Trong những phút giây lắng đọng của ngày kỷ niệm, hãy để lòng mình trở về với quá khứ, để cảm nhận sâu sắc hơn những gian khổ, những hy sinh và cả niềm vui sướng tột cùng của ngày cách mạng thành công. Hãy để lòng mình tràn ngập niềm tự hào, để từ đó, chúng ta có thêm động lực, thêm niềm tin và thêm lòng quyết tâm tiếp bước trên con đường mà cha ông đã mở ra. Để mỗi ngày qua đi, chúng ta lại góp thêm một phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng một Việt Nam ngày càng giàu đẹp, văn minh và hùng cường.
“Có người lính mùa thu ấy ra đi từ mái tranh nghèo
Có người lính mùa xuân ấy ra đi từ đó không về
Dòng tên anh khắc vào đá núi, mây ngàn hóa bóng cây che
Chiều biên cương trắng trời sương núi, mẹ già mỏi mắt nhìn theo.
Việt Nam ơi, Việt Nam! Núi cao như tình mẹ, bốn mùa tóc bạc nỗi thương con.
Việt Nam ơi, Việt Nam! Ngọn núi nơi anh ngã xuống
Rực cháy lên màu hoa đỏ phía rừng xa,
Rực cháy lên màu hoa đỏ trước hoàng hôn.”
Tháng 7 đã đến, trong không khí linh thiêng của ngày thương binh liệt sĩ chúng ta lại cùng cất cao bài ca “Màu hoa đỏ” cũng tựa như thắp một nén tâm nhang thành kính dâng lên các anh hùng liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng... như một sự tri ân vô bờ bến đối với những người con đã xả thân vì nước vì dân. Và họ chính là “màu hoa đỏ” đang hiện hữu giữa thời bình, tiếp nối cái “màu hoa đỏ” rất đỗi vĩ đại của ngày hôm qua.
Dù chiến tranh đã lùi xa nhưng những mất mát, tổn thương vẫn còn đọng lại trên những vết thương của các thương binh, đọng lại trong trái tim của những gia đình có liệt sĩ hy sinh và những con người có lương tri. Những chiến công và tên tuổi của các anh đã trở thành bất tử, khắc ghi vào lịch sử dân tộc và mãi mãi được thế hệ những người Việt Nam tưởng nhớ.
Qua lời bài hát “Màu hoa đỏ” ta có thể cảm nhận được khí thế hừng hực của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc nhưng đó cũng chính là sự bi thương, mất mát rất lớn không có gì có thể bù đắp được. Trong câu thơ "dòng tên anh khắc vào đá núi", một câu thơ ngắn ngủi vỏn vẹn bảy từ ngữ nhưng đằng sau nó là cả một câu chuyện. Câu chuyện về những người lính - họ đã ra đi từ những miền quê đất cằn, sỏi đá, từ những mái tranh nghèo xa xôi, hẻo lánh. Họ từ biệt cha mẹ già, từ biệt vợ con, để lên đường bảo vệ quê hương, Tổ quốc. Có những người may mắn hoàn thành nhiệm vụ nguyên vẹn trở về, có những người lại mang trên mình những di chứng của chiến tranh và có những người ra đi mãi mãi… Ở đây, "dòng tên anh khắc vào đá núi" là sự hi sinh của những người lính cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Những người lính hẹn ngày đi không hẹn ngày về, tuy khác xuất phát điểm nhưng họ cùng chung mục đích. Giữa cuộc đấu tranh đầy gian khổ, họ “gục trên súng mũ bỏ quên đời” vì bệnh tật, vì bom đạn của kẻ thù. Họ nằm xuống chỉ một nắm đất, chỉ kịp vội khắc tên lên dòng đá. Họ nằm xuống, đồng đội thương tiếc họ, đất nước thương nhớ họ, cả những đám mây kia cũng tôn kính, hóa thành bóng tre như che chở họ, như khẳng định sự hy sinh buất khuất, kiên cường kia là bất tử.
“Việt Nam ơi! Việt Nam. Núi cao như tình mẹ, bốn mùa tóc bạc nỗi thương con.”
Những người con Việt Nam hôm nay luôn hát mãi về các anh - tượng đài bất khuất trong lòng mỗi thế hệ con người. Các anh ra đi để lại nỗi sầu thương trên tóc mẹ già. Bao năm tháng đã đi qua nhưng tấm lòng, tình thương của người mẹ luôn hướng về các anh. Có người mẹ đêm đêm không ngủ được, qua bao nhiêu năm vẫn trằn trọc thao thức nhớ về con của mình. Sao tình mẹ thiêng liêng đến thế, cao cả đến thế!
“Việt Nam ơi! Việt Nam. Ngọn núi nơi anh ngã xuống rực cháy lên màu hoa đỏ phía rừng xa. Rực cháy lên màu hoa đỏ trước hoàng hôn”
Sự hy sinh đó là bất tử. Anh đã ngã xuống cho màu hoa đỏ hồi sinh cháy rực cả một góc trời, cháy rực muôn đời, muôn thế hệ như màu máu, màu cờ, màu chiến thắng của dân tộc ta.
Đất nước đã hòa bình, cuộc sống ngày càng phát triển, chúng ta đã đạt được nhiều thành công, nhưng không thể nào đền đáp hết công lao hy sinh của những anh hùng thương binh, liệt sĩ đã hi sinh cả cuộc đời mình, tính mạng mình vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong những ngày tháng 7 này, các nghĩa trang liệt sĩ trên khắp cả nước luôn đón nhận những chuyến thăm, những nén hương tỏ lòng kính trọng, biết ơn đối với những liệt sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Hãy đến Nghĩa trang Liệt sĩ Núi Nài – TP Hà Tĩnh và nhiều nghĩa trang khác, đứng trước những ngôi mộ, theo dõi từng dòng tên, quê quán, ngày nhập ngũ, ngày hy sinh… từ trái tim, bạn sẽ cảm nhận được niềm xúc động, nỗi lòng đau xót... nhưng cuối cùng là niềm tự hào, động viên bản thân sống tốt hơn, xứng đáng với những hi sinh, mất mát của cha ông.
Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 hàng năm là ngày lễ kỷ niệm quan trọng, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đây là dịp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kính cẩn tưởng nhớ, tri ân các bậc cách mạng tiền bối, anh hùng liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã dũng cảm chiến đấu, anh dũng hy sinh; biết ơn các thương binh đã cống hiến một phần xương máu của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước CHXHCN Việt Nam) ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Với tinh thần "... thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước nhất định không chịu làm nô lệ" quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt chống thực dân Pháp nhiều chiến sĩ, đồng bào ta đã ngã xuống, hi sinh trên nhiều chiến trường.
Nỗi đau bao trùm lên toàn dân tộc, nhiều người vợ đã mất đi cả chồng và các con. Để góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát của gia đình các chiến sĩ, đồng bào, chính quyền Việt Nam đã xúc tiến vận động thành lập một tổ chức lấy tên gọi là Hội giúp binh sĩ tử nạn.
Trước tình hình trên, đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn ra đời (sau đó ít lâu được đổi thành Hội giúp binh sĩ bị thương) và được thành lập ở Thuận Hóa (Bình Trị Thiên), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.
Ngày 28/5/1946 Hội giúp binh sĩ bị nạn tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới dự.
Ngày 17/11/1946, cũng tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã có buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho các chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động "Mùa đông binh sĩ" trong cả nước để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét. Tại buổi quyên góp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự buổi lễ và Người đã cởi chiếc áo đang mặc để tặng binh sĩ.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ vào ngày 19/12/1946 số người bị thương và hy sinh tăng lên, đời sống của chiến sĩ, nhất là chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn.
Trước tình hình trên Đảng và Nhà nước ta quyết định nhiều chính sách quan trọng liên quan đến công tác thương binh liệt sĩ nhằm đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của các gia đình chính sách trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến.
Ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) nay là tỉnh Thái Nguyên. Nội dung cuộc họp là thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh, liệt sĩ. Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm ngày "Thương binh toàn quốc". Đây là cuộc mít tinh quan trọng với 2000 người tham gia tại Thái Nguyên. Tại đây Ban Tổ chức đã trịnh trọng đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Hàng năm cứ vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư, quà thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7/5/1954, Đảng và Nhà nước ta càng quan tâm và giải quyết những vấn đề chiến sĩ, gia đình liệt sĩ cũng như công tác thương binh.
Từ tháng 7 năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi "Ngày Thương binh toàn quốc" thành "Ngày Thương binh, liệt sĩ" để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 08/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hằng năm chính thức trở thành "Ngày Thương binh, liệt sĩ" của cả nước.
Với truyền thống "hiếu nghĩa bác ái", lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những người đã hy sinh, cống hiến vì độc lập, tự do và thống nhất của Tổ quốc. Ngày 27/7 hàng năm phản ánh sự đánh giá của Đảng, Nhà nước, nhân dân với những gia đình đã có người hy sinh vì Tổ quốc. Thông qua đó nhằm phát huy tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần cách mạng và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, lãnh đạo. Đây là sự thể hiện tinh thần động viên và phát huy truyền thống cách mạng trong công cuộc đổi mới đất nước. Công tác Thương binh liệt sĩ và chính sách đối với những người có công với cách mạng chính là thể hiện tính ưu việt, là trách nhiệm của của các cấp, các ngành, tổ chức chính trị xã hội và mọi người, của thế hệ hôm nay và mai sau. Thể hiện củng cố niềm tin vào nhân dân, vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự quản lý của nhà nước. Góp phần tăng thêm tiềm lực cách mạng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và là cơ sở vững chắc định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng, Nhà nước ta và nhân dân trân trọng đánh giá cao những cống hiến, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ đối với tổ quốc; đồng thời cũng luôn chú trọng đến giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc, khơi dậy niệm tự hào dân tộc. Phát huy đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa" trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, làm cho mọi người nhận thức sâu sắc và trân trọng công lao to lớn của các anh hùng - liệt sĩ và những người có công với nước. Biến nhận thức và tình cảm tốt đẹp đó thành hành động thiết thực góp phần thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng.
Những ngày mùa thu tháng Bảy, cả nước lại lặng mình tưởng nhớ công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ và thêm tự hào về bước phát triển của công tác chăm sóc thương binh, liệt sĩ theo tư tưởng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đối với thế hệ trẻ Việt Nam, tri ân và đền ơn đáp nghĩa luôn là tình cảm và hành động tự giác của mỗi người trẻ. Tuổi trẻ hôm nay, may mắn được sinh ra và lớn lên trong hòa bình, độc lập tự do của dân tộc, được học tập, rèn luyện, cống hiến và trưởng thành.
Với lòng thành kính và biết ơn sâu sắc, tuổi trẻ Hà Tĩnh nói chung, đoàn viên, thanh niên Liên chi đoàn Khoa Sư phạm, trường Đại học Hà Tĩnh nói riêng hằng năm vào các các dịp lễ, tết, các ngày lễ lớn đặc biệt là dịp kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 đều có nhiều hoạt động thiết thực, hiệu quả, thể hiện lòng tự hào và nêu cao đạo lý tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa” như: thông qua sinh hoạt định kỳ, chi đoàn tổ chức tuyên truyền về sự ra đời, ý nghĩa của Ngày Thương binh - Liệt sĩ, truyền thống “Đền ơn đáp nghĩa - Uống nước nhờ nguồn” gắn với lịch sử truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; tổ chức các chuyến hành trình về nguồn, hành trình đến với các địa danh lịch sử, di tích truyền thống, các địa chỉ đỏ như: Nghĩa trang liệt sĩ Núi Nài, Ngã 3 Đồng Lộc, …; tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng quà các gia đình chính sách, người có công, thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng,… có hoàn cảnh khó khăn.
Những việc làm thiết thực trên vừa là sự tri ân của tuổi trẻ với sự hi sinh cao cả của các thế hệ đi trước, góp phần cùng toàn xã hội chăm sóc, đền ơn đáp nghĩa với những người có công vừa tôn vinh các giá trị truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, thông qua đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, trách nhiệm của thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta đó là lịch sử của dựng nước và giữ nước, là sự hi sinh và những chiến công oanh liệt của các bậc cha ông để giành, giữ độc lập tự do cho Tổ quốc. Những công lao to lớn đó mãi là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam, là điểm tựa tinh thần cho thế hệ trẻ mai sau. Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và tuổi trẻ Liên chi đoàn Khoa Sư phạm nói riêng hôm nay là những người may mắn và hạnh phúc sinh ra trong thời bình nhưng qua những nhân chứng lịch sử, qua những trang sử hào hùng chúng tôi luôn tự hào và nguyện tiếp bước con đường thế hệ đi trước đã chọn, sống, lao động và học tập thật tốt, cống hiến hết mình để xây dựng đất nước ta ngày càng to đẹp hơn, sánh vai với các cường quốc năm châu như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn.
Đời đời ghi nhớ công ơn các anh hùng, liệt sĩ!
Ngày 2/7/2024, Đoàn cán bộ giảng viên khoa Sư phạm do TS. Lê Văn An – Trưởng khoa Sư phạm làm trưởng đoàn đã có chuyến đi tham quan thực tế hệ sinh thái đất ngập nước, học tập mô hình quản lý tại Vườn quốc gia U Minh Hạ - Cà Mau.
Tại đây, đoàn đã được nghe báo cáo về công tác quản lý Vườn Quốc gia, gồm các nội dung như: công tác bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, các hệ sinh thái điển hình tại Vườn Quốc gia và một số nội dung khác.
Vườn quốc gia U Minh Hạ với diện tích 8.527,8 ha được thành lập ngày 20/1/2006, thuộc địa giới hành chính 4 xã thuộc 2 huyện Trần Văn Thời và U Minh, tỉnh Cà Mau. Nằm về phía tây tỉnh Cà Mau, cách thành phố Cà Mau không khoảng 25km,
Đặc trưng nổi bật là hệ sinh thái rừng tràm hình thành trong điều kiện ngập nước, úng phèn, trên đất than bùn, là cây tiêu biểu của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vào ngày 26 tháng 5 năm 2009, vườn quốc gia U Minh Hạ được UNESCO công nhận là 1 trong 3 vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển Thế giới Mũi Cà Mau.
Hệ thống động thực vật ở đây vô cùng phong phú và đa dạng: có gần 250 loài thực vật, 182 loài chim, 20 loài bò sát sát và lưỡng thê, 40 loài thú và nhiều loài côn trùng khác, trong đó có nhiều loài được ghi vào sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế.
Nhờ có môi trường sinh thái ổn định và phù hợp nên các loài chim, cò đều tụ hợp về đây sinh sản, trú ngụ và phát triển với số lượng đông đúc. Đó là những loài như chích cồ, còng cọc, vạc, điên điển, le le, cúm núm, chàng bè, sếu đen… và rất nhiều loài cò như: cò trắng, cò xanh, cò đỏ, cò hương, dơi quạ… trong đó có hàng chục loại chim, thú quý hiếm được ghi vào Sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN).
Rừng U Minh Hạ còn có nguồn lợi thủy sản rất dồi dào trong đó có nhiều loài cá đặc trưng cho khu vực miền Tây như cá lóc, cá bông, cá thác lác, cá trê vàng, sắt bướm…không những có giá trị sinh học mà còn có giá trị kinh tế cao.
Sau khi nghe báo cáo đoàn đã bắt đầu chuyến tham quan các hệ sinh thái bằng thuyền. Đi sâu vào trong rừng, tiếp tục khám phá cảnh quan rừng U Minh Hạ,
Đoàn tham quan hệ sinh thái rừng bằng thuyền
Chia tay U Minh Hạ đoàn di chuyển về lại TP Cần Thơ với nhiều lưu luyến khi chưa thể khám phá hết vẻ đẹp nơi đây. Chuyến đi đã mang lại rất nhiều trải nghiệm thú vị, phát huy tinh thần đoàn kết của các CBGV Khoa Sư phạm.