foto1 foto2 foto3 foto4 foto5


+84 0393.885.127
khoasp@htu.edu.vn

Khoa Sư phạm

Trường Đại học Hà Tĩnh

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng được tích hợp vào lĩnh vực giáo dục, mang lại những tác động đáng kể đến sự phát triển năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên sư phạm 1,2. Việc này không chỉ thay đổi phương pháp giảng dạy truyền thống mà còn mở ra nhiều cơ hội mới để nâng cao kỹ năng tư duy bậc cao, đặc biệt là kỹ năng giải quyết vấn đề, cho giáo viên tương lai 1,3.

Các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh vai trò của AI trong việc tạo ra các môi trường học tập thích ứng, nơi nội dung và phương pháp giảng dạy có thể được điều chỉnh linh hoạt theo năng lực và phản hồi của từng sinh viên 1. Điều này giúp cá nhân hóa trải nghiệm học tập và có tác động sâu sắc đến việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề 1. Chẳng hạn, các hệ thống gia sư thông minh (ITS) và phần mềm viết tự động được hỗ trợ bởi AI có thể tạo ra các tình huống học tập dựa trên vấn đề, khuyến khích sinh viên sư phạm suy nghĩ sâu sắc và đưa ra giải pháp 4. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc sử dụng các công cụ AI có thể cải thiện khả năng tư duy phản biện và suy luận logic, những yếu tố cốt lõi của năng lực giải quyết vấn đề 5.

T12 2025 Ai 11 12 1

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, việc tích hợp AI cũng đặt ra những thách thức. Một trong những lo ngại chính là khả năng sinh viên quá phụ thuộc vào AI, dẫn đến suy giảm kỹ năng tư duy phản biện 6,7. Điều này xảy ra khi sinh viên dựa vào các giải pháp tự động mà không thực sự hiểu được quy trình giải quyết vấn đề hoặc phát triển khả năng suy nghĩ độc lập 7. Một nghiên cứu về sinh viên đại học đã chỉ ra rằng việc phụ thuộc vào AI có thể ảnh hưởng đến kết quả ra quyết định và cách sinh viên tiếp cận các nhiệm vụ giải quyết vấn đề phức tạp 8. Điều quan trọng là phải tìm ra sự cân bằng phù hợp giữa việc tận dụng lợi ích của AI và đảm bảo sinh viên vẫn phát triển các kỹ năng nhận thức cần thiết 9.

Để giải quyết vấn đề này, một số chương trình giáo dục đã được phát triển để tăng cường năng lực giải quyết vấn đề cho sinh viên sư phạm thông qua AI. Ví dụ, chương trình giáo dục hội tụ AI dựa trên kể chuyện và giải quyết vấn đề thực tế đã được áp dụng cho sinh viên sư phạm tin học, cho thấy hiệu quả tích cực trong việc nâng cao năng lực hội tụ 10. Một nghiên cứu khác đã phát triển một mô phỏng tăng cường AI tổng quát (GenAI) nhằm cải thiện năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên sư phạm bằng cách tạo ra một môi trường ảo để họ thực hành và áp dụng kiến thức lý thuyết vào các tình huống thực tế 2. Các giáo viên tương lai cần được trang bị để giải quyết các vấn đề phức tạp trong các bối cảnh giảng dạy và học tập đa dạng, và các chương trình đào tạo giáo viên thường gặp khó khăn trong việc thu hẹp khoảng cách giữa kiến thức lý thuyết và ứng dụng thực tế 2.

Các mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) đã được sử dụng để giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo viên áp dụng công nghệ trong thực hành giảng dạy của họ 11. Điều này đặc biệt quan trọng đối với AI, khi mà sự hiểu biết và kinh nghiệm sử dụng AI của giáo viên có thể ảnh hưởng đến mức độ hiệu quả của việc tích hợp AI vào lớp học 7. Thực tế cho thấy, việc thiếu sự hiểu biết, kinh nghiệm và hỗ trợ đào tạo về AI là những rào cản đáng kể đối với giáo viên 7.

Nhận thức của sinh viên sư phạm về AI và vai trò của nó trong giáo dục cũng rất đa dạng, từ lạc quan đến thận trọng 12. Một số coi AI là công cụ hỗ trợ quý giá, trong khi những người khác lo ngại về những tác động tiêu cực tiềm tàng, chẳng hạn như suy giảm kỹ năng tư duy phản biện 7,13. Nghiên cứu về giáo viên tiền dịch vụ STEM và phi STEM cũng cho thấy thái độ và sự lo lắng của họ đối với AI có thể khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực học tập 14.

Một số nghiên cứu đã tập trung vào việc phát triển các khung kiến thức sư phạm công nghệ nội dung AI (AI-TPACK) để hỗ trợ sinh viên sư phạm trong việc tích hợp AI vào giảng dạy khoa học 15,16. Khung này cung cấp một nền tảng có cấu trúc để kết hợp kiến thức công nghệ, sư phạm và nội dung, giúp giáo viên tương lai chuẩn bị tốt hơn cho việc sử dụng AI trong lớp học 15.

Tóm lại, AI có tiềm năng lớn trong việc nâng cao năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên sư phạm thông qua các môi trường học tập cá nhân hóa, hệ thống phản hồi tự động và mô phỏng thực tế 1,2,17. Tuy nhiên, cần có các chiến lược giáo dục cẩn thận để đảm bảo rằng sinh viên không quá phụ thuộc vào AI và vẫn phát triển các kỹ năng tư duy bậc cao cần thiết 6,9. Việc đào tạo và hỗ trợ giáo viên về AI, cùng với việc phát triển các khung kiến thức phù hợp, sẽ là chìa khóa để khai thác tối đa lợi ích của AI trong giáo dục 7,15,16.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Said, N. A., Osman, N. A., Mohamed, T. I. & Al-Said, K. M. The role of artificial intelligence in enhancing problem-solving skills: The mediating role of adaptive learning environments. Int. J. Innov. Res. Sci. Stud. https://doi.org/10.53894/ijirss.v8i2.5961 (2025) doi:10.53894/ijirss.v8i2.5961.
  2. Lim, J. et al. Development and implementation of a generative artificial intelligence-enhanced simulation to enhance problem-solving skills for pre-service teachers. Comput. Educ. https://doi.org/10.1016/j.compedu.2025.105306 (2025) doi:10.1016/j.compedu.2025.105306.
  3. Khan, M. A. & Begum, H. The Impact of AI-Supported Classroom Activities on Enhancing Critical Thinking and Problem-Solving Skills. Res. J. Soc. Aff. https://doi.org/10.71317/rjsa.003.06.0448 (2025) doi:10.71317/rjsa.003.06.0448.
  4. Shahzad, S. A., Raza, M. M., Malhi, S. D., Ain, Q. ul & Malhi, D. K. Integrating Artificial Intelligence To Foster Critical Thinking And Problem-Solving In 21st-Century Classrooms. Res. J. Soc. Aff. https://doi.org/10.71317/rjsa.003.05.0362 (2025) doi:10.71317/rjsa.003.05.0362.
  5. Asghr, K., Munawar, U. & Ullah, N. EXAMINING THE EFFECT OF AI TOOLS ON CRITICAL THINKING AND PROBLEM SOLVING SKILLS AMONG HIGHER EDUCATION STUDENTS. Gomal Univ. J. Res. https://doi.org/10.51380/gujr-41-01-10 (2025) doi:10.51380/gujr-41-01-10.
  6. Hassen, M. The Impact of AI on Students’ Reading, Critical Thinking, and Problem-Solving Skills. Am. J. Educ. Inf. Technol. https://doi.org/10.11648/j.ajeit.20250902.12 (2025) doi:10.11648/j.ajeit.20250902.12.
  7. Shamsuddinova, S., Heryani, P. & Naval, M. A. Evolution to revolution: Critical exploration of educators’ perceptions of the impact of Artificial Intelligence (AI) on the teaching and learning process in the GCC region. Int. J. Educ. Res. https://doi.org/10.1016/j.ijer.2024.102326 (2024) doi:10.1016/j.ijer.2024.102326.
  8. Hou, C., Zhu, G., Sudarshan, V., Lim, F. S. & Ong, Y. S. Measuring undergraduate students’ reliance on Generative AI during problem-solving: Scale development and validation. Comput. Educ. https://doi.org/10.1016/j.compedu.2025.105329 (2025) doi:10.1016/j.compedu.2025.105329.
  9. Moșoi, A. A., Maican, C. I., Cazan, A.-M. & Sumedrea, S. Do students need to think hard? The interplay of AI and cognitive abilities in solving problems. Educ. Inf. Technol. https://doi.org/10.1007/s10639-025-13738-8 (2025) doi:10.1007/s10639-025-13738-8.
  10. Kim, J.-Y., Jeon, I.-S. & Kim, K. The Educational Effect of Storytelling-based Real-Life Problem-Solving Artificial Intelligence Convergence Education Program for Pre-service Informatics Teacher. Korean Assoc. Learn.-Centered Curric. Instr. https://doi.org/10.22251/jlcci.2023.23.2.397 (2023) doi:10.22251/jlcci.2023.23.2.397.
  11. Scherer, R., Siddiq, F. & Tondeur, J. The technology acceptance model (TAM): A meta-analytic structural equation modeling approach to explaining teachers’ adoption of digital technology in education. Comput. Educ. https://doi.org/10.1016/j.compedu.2018.09.009 (2019) doi:10.1016/j.compedu.2018.09.009.
  12. Lamanauskas, V. PRE-SERVICE PRESCHOOL AND PRIMARY SCHOOL TEACHERS’ POSITION ON ARTIFICIAL INTELLIGENCE: ASPECTS OF BENEFITS AND IMPACT IN THE FUTURE. Nat. Sci. Educ. Compr. Sch. NSECS https://doi.org/10.48127/gu/25.31.24 (2025) doi:10.48127/gu/25.31.24.
  13. Moon, D. Elementary pre-service teachers’ ambivalent views on the introduction of artificial intelligence education: photovoice analysis. Korean Assoc. Pract. Arts Educ. https://doi.org/10.24062/kpae.2023.36.3.51 (2023) doi:10.24062/kpae.2023.36.3.51.
  14. Aktulun, O. U., Kasapoglu, K. & Aydogdu, B. COMPARING TURKISH PRE-SERVICE STEM AND NON-STEM TEACHERS’ ATTITUDES AND ANXIETY TOWARD ARTIFICIAL INTELLIGENCE. J. Balt. Sci. Educ. https://doi.org/10.33225/jbse/24.23.950 (2024) doi:10.33225/jbse/24.23.950.
  15. Dewi, N. R., Aribowo, L. A., Aji, S., Rahayu, A. & Listiaji, P. The Analysis of Pre-Service Teachers’ Ability in Integrating Artificial Intelligence–Technological Pedagogical Content Knowledge to Learning Instruction. J. IPA Amp Pembelajaran IPA https://doi.org/10.24815/jipi.v9i3.48648 (2025) doi:10.24815/jipi.v9i3.48648.
  16. Xu, G., Yu, A., Gao, A. & Trainin, G. Developing an AI-TPACK framework: exploring the mediating role of AI attitudes in pre-service TCSL teachers’ self-efficacy and AI-TPACK. Educ. Inf. Technol. https://doi.org/10.1007/s10639-025-13630-5 (2025) doi:10.1007/s10639-025-13630-5.
  17. Deeva, G., Bogdanova, D., Serral, E., Snoeck, M. & Weerdt, J. D. A review of automated feedback systems for learners: Classification framework, challenges and opportunities. Comput. Educ. https://doi.org/10.1016/j.compedu.2020.104094 (2021) doi:10.1016/j.compedu.2020.104094.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 Lời giới thiệu: Trong đêm chung kết Hội thi NVSP bài hùng biện của bạn Trần Thị Ngọc sinh viên K16 GDTH về chủ đề: “Tự do ngôn luận trong kỷ nguyên số hóa” được ban giám khảo đánh giá cao. Chúng tôi xin trân trọng đăng toàn văn nội dung bài hùng biện của bạn Trần Thị Ngọc.

 Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên công nghệ số phát triển như vũ bão, nơi mỗi người chỉ với một chiếc điện thoại đã có thể chia sẻ quan điểm, bày tỏ thái độ và tác động đến hàng nghìn, thậm chí hàng triệu người. Trong bối cảnh đó, tự do ngôn luận trở thành quyền vô cùng quan trọng, thúc đẩy dân chủ, sáng tạo vào sự phát triển xã hội. Nhưng cũng chính trong không gian mở ấy, tự do ngôn luận lại đối diện với nhiều thách thức: tin giả, ngôn từ xúc phạm, xuyên tạc, công kích, chống phá,…Vậy câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để chúng ta sử dụng quyền tự do ngôn luận mà không vượt khỏi ranh giới của trách nhiệm?

T12 2025 SV 10 12 1

Thứ nhất: Tự do ngôn luận là quyền quan trọng và là nền tảng của xã hội văn minh.

Quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người, cho phép mỗi cá nhân được tự do bày tỏ suy nghĩ, ý kiến và quan điểm của mình về mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Nhờ đó tri thức lan tỏa, các vấn đề xã hội được thảo luận rộng rãi và tiếng nói của mỗi người được tôn trọng.

Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý rằng, quyền tự do ngôn luận không phải là “giấy phép vĩnh viễn” để muốn nói gì cũng được. Một phát ngôn sai lệch có thể lan truyền với tốc độ chóng mặt, gây hiểu lầm, tổn hại danh dự người khác, thậm chí ảnh hưởng đến an ninh và trật tự xã hội.

Ví dụ, đầu năm 2025 trên mạng xã hội xuất hiện tin giả về việc sáp nhập các tỉnh thành khiến dư luận hoang mang và buộc các cơ quan chức năng phải vào cuộc xử lý. Điều này cho thấy rằng, tự do ngôn luận luôn phải đặt trong khuôn khổ pháp luật và chuẩn mực đạo đức, bởi thiếu giới hạn tự do sẽ trở thành hỗn loạn.

Thứ hai: Việc xác lập giới hạn cho tự do ngôn luận là cần thiết để bảo vệ cộng đồng và duy trì trật tự xã hội.

Theo Hiến pháp năm 2013 của nước ta, điều 25 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.” Điều này khẳng định quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ, đồng thời nhấn mạnh rằng quyền này phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý và có những giới hạn nhất định. Vậy đó là những giới hạn nào?

Thứ nhất, không được xâm phạm danh dự nhân phẩm người khác;  Thứ hai, không được tuyên truyền thông tin sai sự thật, bịa đặt hoặc gây hoang mang dư luận; Thứ ba, không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia;  Thứ 4, không vu khống bịa đặt; Cuối cùng, không kích động bạo lực, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo hay phá hoại ổn định xã hội.

Những giới hạn này không nhằm ngăn cản tiếng nói của con người, mà bảo vệ mỗi tiếng nói được cất lên trong môi trường an toàn, minh bạch và có trách nhiệm. Nếu không có giới hạn, tự do ngôn luận sẽ trở thành mảnh đất màu mỡ cho hỗn loạn và tiêu cực.

Thứ ba: Trong kỷ nguyên số, trách nhiệm của mỗi cá nhân giữ vai trò quyết định đối với giá trị của tự do ngôn luận.

Mỗi người không chỉ có quyền nói, mà còn có trách nhiệm “biết nói thế nào cho đúng”. Vậy trách nhiệm đó là gì?

Trước hết, là trách nhiệm với chính lời nói của mình: kiểm chứng trước khi chia sẻ, suy nghĩ trước khi bình luận, hiểu rõ ranh giới giữa góp ý và công kích.

Thứ hai, là trách nhiệm với cộng đồng: góp phần lan tỏa thông tin tích cực, bảo vệ sự thật, phản bác tin giả thay vì tiếp tay cho nó. Mỗi người dùng Internet cần trở thành tấm lọc, không phải cái loa khuếch đại.

Cuối cùng, trách nhiệm còn nằm ở nhà nước và các nền tảng số: cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, đảm bảo mọi tiếng nói được tôn trọng nhưng phải nằm trong khuôn khổ luật pháp; đồng thời tăng cường xử lý các tài khoản lan truyền thông tin độc hại, tạo môi trường an toàn cho sự đối thoại và sáng tạo.

Kết luận

Để kết lại chủ đề ngày hôm nay, em xin trích dẫn một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: "Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp". Câu nói ấy nhắc chúng ta rằng tự do ngôn luận không chỉ là quyền, mà còn là trách nhiệm giữ gìn tiếng nói, văn hóa và phẩm chất con người trong xã hội hiện đại.

Tự do ngôn luận chỉ thực sự có ý nghĩa khi mỗi cá nhân biết tự đặt giới hạn cho lời nói của mình; biết dùng tiếng nói để xây dựng và lan tỏa sự thật thay vì để tin giả và thông tin sai lệch lấn át và làm méo mó nhận thức.

Và thông điệp mà em muốn gửi gắm đến thế hệ trẻ - những người đang sống, học tập và khẳng định mình trong môi trường số chính là: “Hãy trở thành công dân số thông minh và có trách nhiệm. Hãy nói điều cần nói, nói điều đúng, và nói với thái độ tôn trọng. Hãy để tiếng nói của mình góp phần tạo môi trường mạng văn minh và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.”

Ngày 2/12/2025, tại giảng đường A5, Trường Đại học Hà Tĩnh, Khoa Sư phạm đã tổ chức thành công phần thi Viết bảng cho sinh viên Ngành Giáo dục Tiểu học, nội dung mở đầu cho Hội thi Nghiệp vụ Sư phạm năm học 2025–2026. Phần thi Viết bảng năm nay đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp: sự chỉn chu, tỉ mỉ được thể hiện trong từng đường phấn, khả năng làm chủ không gian bảng, phong thái chững chạc của giáo viên tiểu học tương lai.

So với những năm trước, phần thi năm nay cho thấy sự đồng đều rõ rệt về kỹ năng viết chữ, trình bày bảng. Nhiều bài thi của sinh viên không chỉ đáp ứng đầy đủ yêu cầu về bố cục, độ cân đối, tính thẩm mỹ mà còn thể hiện được sự sáng tạo, tinh tế trong cách tổ chức nội dung, điều cần thiết đối với một giáo viên tiểu học tương lai. Với vai trò giám khảo, chúng tôi đánh giá cao sự chuẩn bị nghiêm túc, kỹ năng nghề nghiệp và phong thái sư phạm của sinh viên các khóa K15, K16 và K17 ngành Giáo dục Tiểu học.

Sinh viên K15 cho thấy sự chín chắn và thành thạo. Các em trình bày bảng khoa học, rõ ràng, thể hiện đúng tinh thần “mẫu mực” mà giáo viên tiểu học cần có. Những đường phấn dứt khoát, kích cỡ chữ chuẩn, sự phân chia bảng hợp lý cho thấy các em đã trải qua quá trình rèn luyện kỹ lưỡng.

T12 2025 Hong 6 12 1

T12 2025 Hong 6 12 2

Thí sinh K15 trình bày bảng khoa học, chữ viết chuẩn, thao tác phấn tự tin

Sinh viên K16 gây ấn tượng bởi sự chắc tay và sáng tạo trong trình bày. Một số bài thi sử dụng thành thạo các kiểu chữ như chữ đứng, chữ nghiêng; biết nhấn nhá các đơn vị kiến thức bằng màu phấn phụ; đồng thời sắp xếp nội dung hợp lý giúp người đọc dễ theo dõi.

T12 2025 Hong 6 12 3

T12 2025 Hong 6 12 4

Bài thi của sinh viên K16 gây ấn tượng bởi sự sáng tạo và kỹ năng làm chủ bảng phấn, linh hoạt sử dụng phấn màu

Sinh viên K17 Giáo dục Tiểu học, mặc dầu lần đầu tham dự phần thi này nhưng đã đem đến cho  hội thi những bài viết bảng đầy nỗ lực. Các em cho thấy tinh thần cầu tiến, mạnh dạn thử sức với các kiểu trình bày khác nhau. Một số bài thi dù chưa hoàn toàn đạt độ chuẩn xác về kích thước chữ hay bố cục, nhưng lại gây thiện cảm bởi sự gọn gàng, tinh thần học hỏi và kỹ năng xử lý bảng phấn khá linh hoạt. Đây là những mầm non sư phạm hứa hẹn sẽ phát triển mạnh mẽ trong các năm tiếp theo.

T12 2025 Hong 6 12 5

T12 2025 Hong 6 12 7

Những gương mặt K17 thể hiện triển vọng và tinh thần học hỏi đáng ghi nhận

Hội thi Nghiệp vụ sư phạm năm nay khép lại phần thi Viết bảng với nhiều dấu ấn đẹp đẽ. Những bài thi xuất sắc của sinh viên K15, K16 và K17 không chỉ phản ánh chất lượng đào tạo của Khoa Sư phạm – Trường Đại học Hà Tĩnh, mà còn khẳng định bản lĩnh, tài năng và tình yêu nghề của những giáo viên tiểu học tương lai.

Báo cáo kết quả công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2025, phương hướng, nhiệm vụ năm 2026 của Chi bộ Khoa Sư phạm

Lời giới thiệu: Năm 2025, chi bộ Khoa Sư  phạm đạt được nhiều kết quả nổi bật trên tất cả các mặt đào tạo, NCKH và phát triển Đảng. Chúng tôi trân trong giới thiệu toàn văn báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026.

Năm 2025 là năm có ý nghĩa lịch sử quan trọng, năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội Đảng các cấp, chuẩn bị tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; năm đánh dấu những bước chuyển mình mạnh mẽ của nền giáo dục đại học trong kỷ nguyên số. Đối với Chi bộ Khoa Sư phạm, đây là năm bản lề để đánh giá lại toàn bộ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và định vị lại vị thế của Khoa trong chiến lược phát triển chung của Trường Đại học Hà Tĩnh giai đoạn 2025 – 2035.

Thực hiện Kế hoạch của Đảng ủy Trường Đại học Hà Tĩnh về việc tổng kết công tác Đảng năm 2025, Chi bộ Khoa Sư phạm báo cáo kết quả hoạt động và phương hướng nhiệm vụ như sau:

PHẦN THỨ NHẤT: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 2025

A. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH VÀ BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG

1. Bối cảnh chung và thuận lợi cơ bản

Năm 2025, tình hình chính trị, xã hội trong nước và tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục ổn định và phát triển. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ sinh viên sư phạm (Nghị định 116), tiếp tục là đòn bẩy quan trọng thu hút nhân lực.

Chi bộ Khoa Sư phạm bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 2025 với những thuận lợi căn bản:

Về tổ chức: Chi bộ Khoa Sư phạm có số Đảng viên đông nhất trong Đảng bộ Nhà trường. Có thời điểm lên đến 57 đảng viên nhưng số lượng không ổn định do có nhiều Đảng viên sinh viên. Hiện nay, sau khi chi bộ có 40 Đảng viên với 20 Đảng viên là cán bộ, giảng viên, nhân viên và 20 Đảng viên sinh viên. Đây là nguồn lực chính trị hùng hậu, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện trên mọi mặt trận.

Về con người: Đội ngũ cán bộ, đảng viên có trình độ chuyên môn cao, bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu kinh nghiệm và tâm huyết với nghề. Sự đoàn kết, thống nhất trong Chi ủy và tập thể lãnh đạo Khoa là tài sản vô giá, là động lực để vượt qua mọi thách thức.

Về truyền thống: Khoa Sư phạm luôn là lá cờ đầu trong các phong trào thi đua, đặc biệt là Nghiên cứu khoa học của Giảng viên và sinh viên cũng như phong trào rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, phong trào văn hóa văn nghệ, TDTT.

2. Những khó khăn, thách thức Bên cạnh thuận lợi, năm 2025 cũng đặt ra những thách thức gay gắt đòi hỏi Chi bộ phải có tư duy đổi mới để lãnh đạo:

Công tác tuyển sinh: Do nghị định 116 và đặc thù của Trường ĐH địa phương nên chỉ tiêu tuyển sinh được giao quá ít với chỉ 40 sinh viên ngành GDTH.

Áp lực chuẩn hóa: Yêu cầu về chuẩn trình độ giảng viên (Tiến sĩ) và công bố khoa học ngày càng khắt khe theo các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng mới, tạo áp lực lớn lên đội ngũ giảng viên trẻ vốn đang gặp khó khăn về kinh tế.

Về đời sống và thu nhập: Trong bối cảnh giá cả thị trường leo thang, mức thu nhập thực tế của cán bộ, giảng viên Nhà trường hiện nay còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với công sức trí tuệ bỏ ra và chưa đảm bảo mức sống trung bình khá tại địa phương. Đặc biệt, cơ chế chi trả tiền lương, thu nhập tăng thêm hiện tại còn bộc lộ một số bất cập, chưa thực sự tạo được động lực khuyến khích người làm việc hiệu quả (theo vị trí việc làm và sản phẩm đầu ra). Thực trạng này kéo dài đã tạo nên tâm lý băn khoăn, lo lắng, thậm chí làm giảm nhiệt huyết cống hiến của một bộ phận giảng viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên có trình độ cao - lực lượng nòng cốt cho sự phát triển của Khoa trong 10 năm tới."

Cơ sở vật chất: Mặc dù đã được đầu tư nhưng trang thiết bị phòng thí nghiệm, thực hành cho các ngành Khoa học tự nhiên vẫn chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.

B. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRÊN CÁC MẶT CÔNG TÁC

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng ủy Trường, Chi bộ Khoa Sư phạm đã bám sát Nghị quyết, nỗ lực phấn đấu và đạt được những thành tựu quan trọng, có tính bước ngoặt sau:

I. LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG: XÂY DỰNG "TRẬN ĐỊA" TƯ TƯỞNG VỮNG CHẮC

Xác định công tác giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ hàng đầu, là "gốc" của mọi công việc, Chi bộ đã triển khai đồng bộ và chiều sâu:

1. Đổi mới phương thức học tập, quán triệt Nghị quyết

Tổ chức quán triệt đầy đủ, kịp thời các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh ủy và Đảng ủy Trường đến 100% cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Điểm mới: Chi bộ đã có một số đổi mới trong hình thức tổ chức quán triệt tăng cường thảo luận chuyên đề, liên hệ thực tiễn. Mỗi Nghị quyết được triển khai đều gắn với những mục tiêu cụ thể mà chi ủy và BCN Khoa Sư phạm sẽ triển khai để để thực hiện Nghị quyết.

Trong các buổi sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt chuyên đề đã kết hợp nội dung về "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", gắn với xây dựng chuẩn mực đạo đức nhà giáo trong thời đại mới. Đặc biệt nội dung này không chỉ được quán triệt trong đội ngũ cán bộ, giảng viên và nhân viên mà còn được triển khai sâu rộng đến 100% sinh viên của Khoa Sư phạm.

2. Công tác nắm bắt và định hướng dư luận xã hội

Chi bộ đã thiết lập kênh thông tin hai chiều hiệu quả giữa Chi ủy và Đảng viên, giữa giảng viên và sinh viên. Chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, giảng viên, đặc biệt là những đồng chí đang gặp khó khăn trong cuộc sống hoặc đang đi học nâng cao trình độ. Kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh ngay từ cơ sở, không để xảy ra tình trạng đơn thư vượt cấp.

Kết quả: 100% cán bộ, đảng viên giữ vững lập trường tư tưởng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn trong Khoa được đảm bảo tuyệt đối.

II. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ: KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ "MŨI NHỌN"

Đây là lĩnh vực thể hiện rõ nét nhất vai trò lãnh đạo của Chi bộ, minh chứng bằng những "con số biết nói" và những sản phẩm cụ thể:

1. Lãnh đạo công tác Đào tạo và Bồi dưỡng đội ngũ

Chiến lược "Trẻ hóa và Nâng chuẩn": Chi bộ đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển đội ngũ, xác định Tiến sĩ là chuẩn mực bắt buộc cho sự phát triển bền vững.

Trong năm 2025, Chi bộ đã động viên và tạo điều kiện tối đa cho 05 giảng viên tiếp tục làm Nghiên cứu sinh (NCS) trong và ngoài nước. Hiện nay Khoa còn 03 giảng viên đang trong lộ trình để chuẩn bị đi học NCS dư kiến từ tháng 1/2026 – 05/2026.

Chỉ đạo chuyên môn phân công giảng dạy hợp lý để các NCS vừa hoàn thành nhiệm vụ tại trường, vừa đảm bảo tiến độ học tập.

Chất lượng đào tạo: Duy trì nề nếp kỷ cương dạy và học. Chỉ đạo cập nhật đề cương chi tiết, bài giảng theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học, bám sát yêu cầu của Chương trình GDPT 2018. Trong quá trình đào tạo, đội ngũ sinh viên của Khoa đã chủ động nắm bắt những nội dung mới hiện đại của Chương trình GDPT 2018 với tín hiệu tích cực từ các đợt thực tập sư phạm, các đề tài NCKH gắn với những định hướng của Chương trình GDPT 2018. Một điểm sáng của quá trình đào tạo là kỹ năng Ứng dụng CNTT, Trí tuệ nhân tạo (AI) trong rèn luyện Phương pháp và NVSP của sinh viên Khoa.

2. Lãnh đạo hoạt động Nghiên cứu khoa học (NCKH) – Điểm sáng rực rỡ Năm 2025 đánh dấu bước chuyển mình từ "lượng" sang "chất" trong NCKH của Khoa Sư phạm:

Về giảng viên: Phong trào viết giáo trình, sách tham khảo phát triển mạnh mẽ. Số lượng công trình công bố chiếm tỷ lệ áp đảo so với các đơn vị khác trong trường.

Thành tích đột phá: Khoa có số bài báo khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục SCIE đứng đầu toàn trường, trong khoa có 2 bằng sáng chế, hướng dẫn 1 em sinh viên đạt giải nhì sinh viên NCKH cấp quốc gia và hướng dẫn một nhóm sinh viên tham gia báo cáo khoa học tại Hội nghị SV NCKH tại Trường ĐHGD trực thuộc ĐHQG Hà Nội. Đây không chỉ là thành tích cá nhân mà là niềm tự hào của tập thể, mở ra hướng đi mới về hội nhập quốc tế trong nghiên cứu khoa học giáo dục.

Về sinh viên: Chi bộ đã chỉ đạo Đoàn thanh niên và các tổ bộ môn xây dựng các nhóm nghiên cứu sinh viên ngay từ năm thứ nhất. Kết quả NCKH sinh viên năm 2025 đạt thành tích xuất sắc nhất toàn trường với: 02 Giải Nhất, 01 Giải Nhì, 01 Giải Ba, nhiều đề tài được chọn đăng trong kỷ yếu SV NCKH cấp Trường và có trên 30 đề tài được chọn đăng trong kỷ yếu SVV NCKH cấp Khoa tại 2 đơn vị: Khoa Sư phạm và Khoa Chính trị - Luật. Ngoài ra, trong năm học 2024 – 2025, có 48 sinh viên K14 ngành Sư phạm tham gia viết đề tài Khóa luận tốt nghiệp. Các đề tài đều có tính ứng dụng cao, gắn liền với thực tiễn giáo dục phổ thông. Có 1 đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học đạt giải nhì cấp quốc gia. Có 1 đề tài được mời báo  cáo tại Hội nghị SV NCKH tại Trường ĐHGD. Có 1 đề tài gắn với thực tiễn đổi mới PPGD đã được mời tập huấn tại một số Trường TH, THCS trong tỉnh.

Số bài báo công bố KH của sinh viên tăng trưởng đột phá với 11 bài báo đăng trên tạp chí có chỉ số ISSN trong đó có 01 bài quốc tế  SCIE. 

Hàng năm luôn ra được hai số nội san vào tháng 3 và tháng 11.

3. Lãnh đạo công tác Tuyển sinh và Quảng bá thương hiệu

Trước khó khăn về tuyển sinh, Chi bộ không thụ động chờ đợi mà đã chỉ đạo tiếp tục tăng cường quảng bá thương hiệu bằng nhiều hình thức như: xây dụng phát triển phòng truyền thống, sinh viên Khoa tăng cường các nội dung chia sẻ các hoạt động trên fanpage, quảng bá hình ảnh thông qua các hoạt động giao lưu với Đại học Induck.

Huy động tối đa lực lượng giảng viên và sinh viên tiêu biểu tham gia Livestream trên fanpage Khoa, tư vấn trực tiếp tại các trường THPT trọng điểm trong và ngoài tỉnh.

Mặc dù kết quả tuyển sinh các ngành đặc thù còn khiêm tốn (do cơ chế khách quan), nhưng ngành Giáo dục Tiểu học, Mầm non vẫn duy trì được sức hút và chất lượng đầu vào cao.

III. CÔNG TÁC TỔ CHỨC XÂY DỰNG ĐẢNG: KIỆN TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN

1. Công tác tổ chức và cán bộ

Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ. Quy chế làm việc của Chi ủy, Chi bộ được rà soát, bổ sung phù hợp với tình hình mới.

Duy trì nề nếp sinh hoạt Chi bộ định kỳ vào các ngày 1 – 3 hàng tháng. Chất lượng sinh hoạt được nâng lên, đảm bảo tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu. Trong sinh hoạt, mở rộng dân chủ, khuyến khích đảng viên trẻ phát biểu, tranh luận để tìm ra giải pháp tối ưu.

2. Công tác phát triển Đảng viên – Kỷ lục mới

Xác định sinh viên là nguồn lực dồi dào và chất lượng để phát triển Đảng, Chi bộ đã chỉ đạo Đoàn thanh niên, Hội sinh viên làm tốt công tác tạo nguồn ("Ươm mầm hạt giống đỏ").

Quy trình kết nạp được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc đặc biệt gắn với những hoạt động nâng cao chất lượng đào tạo trong đó yêu cầu cảm tình Đảng, Đảng viên dự bị phải có đề tài NCKH, Rèn luyện NVSP, nội dung tự hộc trên thư viện gắn với hoạt động Riwiew các tác phẩm kinh điển về GD học. Tuy nhiên quy trình linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng ưu tú.

Kết quả: Năm 2025, Chi bộ đã kết nạp được 18 Đảng viên mới là sinh viên. Đây là con số vượt chỉ tiêu phát triển Đảng của nhiệm vụ năm 2025 đề ra, khẳng định sức hút của Đảng đối với thế hệ trẻ tri thức. Các đảng viên mới đều là những sinh viên xuất sắc trong học tập, NCKH và phong trào Đoàn.

3. Công tác Kiểm tra, Giám sát và Thi hành kỷ luật Đảng

Chi ủy đã xây dựng và thực hiện nghiêm túc kế hoạch kiểm tra, giám sát năm 2025.

Nội dung kiểm tra tập trung vào: Việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên, việc tuân thủ Quy định về những điều đảng viên không được làm, trách nhiệm nêu gương của cán bộ chủ chốt.

Kết quả: Qua kiểm tra, giám sát, không phát hiện tổ chức đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Không có đơn thư khiếu nại, tố cáo.

IV. LÃNH ĐẠO CÁC TỔ CHỨC ĐOÀN THỂ

1. Công đoàn bộ phận

Phối hợp chặt chẽ với chuyên môn tổ chức tốt các phong trào thi đua "Dạy tốt - Học tốt", "Giỏi việc trường - Đảm việc nhà".

Quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên; tổ chức thăm hỏi kịp thời các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, thai sản.

Tổ chức được một đợt tham quan học hỏi nhằm nâng cao đời sống tinh thần của cán bộ, giảng viên trong điều kiện khó khăn của Khoa nói riêng và Nhà Trường nói chung.

2. Liên chi đoàn – Liên chi hội sinh viên

Tiếp tục giữ vững danh hiệu lá cờ đầu trong công tác Đoàn và phong trào thanh niên của Trường, trong năm được giấy khen của đoàn trường, 5/6 đoàn viên đạt thành tích sinh viên 5 tốt cấp tỉnh của trường thuộc khoa sư phạm (gồm các đồng chí: Hoàng Quang Huy K16, Nguyễn Thị Ngọc Ánh k17, Trương Thị Cẩm K16, Nguyễn Khánh Huyền K17, Nguyễn Thị Phương Thảo K15).

Tổ chức thành công các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tình nguyện mùa hè xanh, tạo sân chơi bổ ích, lành mạnh cho sinh viên.

V. ĐÁNH GIÁ CHUNG, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Đánh giá xếp loại chất lượng: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

2. Những hạn chế, khuyết điểm Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Chi bộ thẳng thắn chỉ ra những tồn tại.

3. Về chiến lược phát triển: Chưa có những giải pháp mang tính "đột phá khẩu", "dài hơi" để tháo gỡ triệt để bài toán tuyển sinh các ngành của Khoa Sư phạm. Việc mở mã ngành mới còn chậm so với nhu cầu thị trường.

Về đội ngũ: Mặc dù số lượng NCS đông (5 đồng chí) nhưng chưa có chính sách hỗ trợ tài chính đột phá từ cấp Khoa/Trường để tạo động lực mạnh mẽ hơn. Một số ít giảng viên còn an phận, chưa tích cực trong việc học tập nâng cao trình độ.

Về sinh hoạt Đảng: Một số buổi sinh hoạt chuyên đề nội dung còn chưa thực sự phong phú, phần thảo luận đôi khi còn trầm lắng.

4. Nguyên nhân của hạn chế

Khách quan: Cơ chế chính sách vĩ mô về đào tạo sư phạm có nhiều thay đổi; sự cạnh tranh gay gắt của các trường đại học lớn trong khu vực.

Chủ quan: Công tác tham mưu về chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài còn hạn chế. Nguồn lực tài chính của Nhà trường gặp khó khăn dẫn đến việc chi trả thu nhập chưa đủ sức cạnh tranh để 'giữ chân' chất xám. Bên cạnh đó, Quy chế chi tiêu nội bộ hiện hành còn một số điểm chưa hợp lý, chưa thực sự đảm bảo nguyên tắc 'làm nhiều hưởng nhiều, làm hiệu quả hưởng cao', dẫn đến tình trạng cào bằng hoặc chưa công bằng trong phân phối thu nhập, vô hình trung triệt tiêu động lực phấn đấu của những nhân tố tích cực.

PHẦN THỨ HAI: PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NĂM 2026

Năm 2026 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025-2030. Chi bộ Khoa Sư phạm xác định phương châm hành động: "ĐOÀN KẾT - KỶ CƯƠNG - SÁNG TẠO - HỘI NHẬP".

I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC

1. Tầm nhìn chiến lược: Xây dựng Khoa Sư phạm trở thành Trung tâm xuất sắc (Center of Excellence) về đào tạo giáo viên và nghiên cứu khoa học giáo dục của khu vực Bắc Trung Bộ. Phấn đấu đến năm 2035, Khoa Sư phạm sẽ là địa chỉ tin cậy cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng thích ứng với môi trường giáo dục 4.0 và hội nhập quốc tế.

2. Tư duy đổi mới: Chuyển dịch mạnh mẽ từ tư duy "đào tạo những gì mình có" sang "đào tạo những gì xã hội cần". Lấy chất lượng người học và sự hài lòng của nhà tuyển dụng làm thước đo hiệu quả lãnh đạo của Chi bộ.

II. CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU NĂM 2026

1. Công tác Đảng

100% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó 20% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Kết nạp mới từ 10 - 15 đảng viên (trong đó tiếp tục duy trì quy định sinh viên được kết nạp phải có thành tích NCKH, Rèn luyện NVSP và sản phẩm Review sách). Tăng cường vai trò Câu lạc Bộ Đảng viên sinh viên và tiếp tục thực hiện Nghị quyết tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý HSSV, hoạt động của Liên chi đoàn và phong trào thanh niên.

Chi bộ đạt danh hiệu "Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ".

2. Công tác Chuyên môn

Có ít nhất 04 - 05 bài báo quốc tế (ISI/Scopus).

100% giảng viên hoàn thành định mức NCKH và giờ giảng.

Hỗ trợ 02/05 NCS bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ cấp cơ sở/cấp trường.

Sinh viên tiếp tục đạt giải cao (Nhất, Nhì) trong hội nghị NCKH cấp trường và cấp Bộ (nếu có).

III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM

         Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, Chi bộ tập trung lãnh đạo thực hiện 5 nhóm giải pháp đột phá:

Nhóm giải pháp 1: Nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Chi ủy

Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ theo hướng thiết thực, hiệu quả. Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý hồ sơ đảng viên và sinh hoạt đảng (Sổ tay đảng viên điện tử).

Tăng cường công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng, đặc biệt là trong đối tượng sinh viên.

Nhóm giải pháp 2: Quy hoạch và phát triển đội ngũ - Chìa khóa thành công

Xây dựng "Lộ trình phát triển nhân tài 2026-2030": Rà soát, quy hoạch lại đội ngũ cán bộ nguồn.

Kiến nghị Nhà trường có cơ chế "đặt hàng" và cam kết sử dụng đối với giảng viên đi học Tiến sĩ. Xây dựng môi trường làm việc hạnh phúc để thu hút và giữ chân nhân tài.

Nhóm giải pháp 3: Đổi mới đào tạo và NCKH - Vươn tầm quốc tế

Mở ngành: Tập trung trí tuệ tập thể để nghiên cứu, xây dựng đề án mở các mã ngành mới tích hợp, liên môn (ví dụ: Sư phạm Khoa học Tự nhiên...) để đón đầu nhu cầu Chương trình GDPT mới.

Quốc tế hóa: Khuyến khích giảng viên hợp tác nghiên cứu với các đối tác trong và ngoài nước. Thành lập các "Nhóm nghiên cứu" trong Khoa để dẫn dắt phong trào NCKH.

Nhóm giải pháp 4: Công tác sinh viên và Thanh niên. 

Đổi mới toàn diện công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên. Xây dựng hình mẫu sinh viên Sư phạm Hà Tĩnh: "Vững chuyên môn - Giỏi nghiệp vụ - Đẹp nhân cách". Tăng cường các hoạt động trải nghiệm, thực kiến tập ngay từ năm thứ nhất để sinh viên làm quen với môi trường giáo dục thực tế.

Nhóm giải pháp 5: Công tác Kiểm tra, giám sát. 

Tăng cường giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề. Chú trọng giám sát việc thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi phạm (nếu có) để giữ nghiêm kỷ luật Đảng.

PHẦN THỨ BA: KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT

Xuất phát từ thực tiễn hoạt động và yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, Chi bộ Khoa Sư phạm trân trọng kiến nghị với Đảng ủy, Hội đồng Trường, Ban

Giám hiệu một số nội dung sau:

1. Về cơ chế tài chính: Đề nghị Đảng ủy, Hội đồng Trường chỉ đạo rà soát, sửa đổi căn bản Quy chế chi tiêu nội bộ theo hướng:

Công bằng và Minh bạch: Đánh giá lại định mức giờ giảng và hệ số lương để đảm bảo thu nhập phản ánh đúng sức lao động và đóng góp thực tế. Cần khắc phục ngay những bất cập trong việc chi trả giữa khối hành chính và khối giảng dạy, ưu tiên nguồn lực cho đội ngũ giảng viên trực tiếp đứng lớp và nghiên cứu khoa học.

Đảm bảo tái tạo sức lao động: Trong điều kiện nguồn thu khó khăn, cần có các gói hỗ trợ phúc lợi thiết thực hoặc phụ cấp đặc thù cho giảng viên trình độ cao (Tiến sĩ) và giảng viên trẻ để họ yên tâm công tác, giảm thiểu nguy cơ 'chảy máu chất xám' sang các cơ sở giáo dục khác hoặc khu vực tư nhân.

Quan điểm: Cần xác định việc cải thiện thu nhập không phải là chi phí, mà là khoản 'đầu tư cho sự tồn tại và phát triển' của Nhà trường trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt hiện nay

2. Về công tác tuyển sinh: Đề nghị Đảng ủy, BGH làm việc với UBND Tỉnh và Sở GD&ĐT để có cơ chế "giao nhiệm vụ, đặt hàng" đào tạo giáo viên các môn KHTN đang thiếu hụt cục bộ, đảm bảo đầu ra cho sinh viên, từ đó tháo gỡ khó khăn trong tuyển sinh.

3. Về cơ sở vật chất: Tiếp tục đầu tư nâng cấp hệ thống phòng thí nghiệm Lý – Hóa - Sinh đạt chuẩn quốc gia, không chỉ phục vụ đào tạo mà còn phục vụ bồi dưỡng giáo viên phổ thông và nghiên cứu khoa học.

Lời giới thiệu: Chúng tôi trân trọng giới thiệu bài phát biểu của đồng chí Bí thư chi bộ - Trưởng khoa Sư phạm trong Hội nghị viên chức người lao động Trường Đại học Hà Tĩnh năm học 2025 – 2026 ngày 12/11/2025. Nội dung của phát biểu sẽ là những định hướng mà chi bộ, BCN Khoa đã và sẽ tiếp tục thực hiện nhằm nâng cao chất lượng chất lượng đào tạo trong thời gian tới.

Tôi xin thay mặt cán bộ, giảng viên và nhân viên Khoa Sư phạm phát biểu về những nội dung mà Chi bộ, BCN Khoa và tập thể cán bộ, giảng viên, nhân viên Khoa đã thực hiện nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên các ngành đào tạo SP.

Đặc thù của Khoa Sư phạm là đào tạo ra các nhà giáo có tình yêu đối với nghề nghiệp, say mê tri thức, có đạo đức gương mẫu trong cuộc sống có kỹ năng tự học đáp ứng với những yêu cầu Đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiên nay và đặc biệt cập nhật những vấn đề mới của CT GDPT 2018.  Khoa Sư phạm Đại học Hà Tĩnh là Khoa đào tạo quan trọng của Trường ĐH Hà Tĩnh với truyền thống gần 70 năm đào tạo giáo viên cho ngành GD Hà Tĩnh. Chi ủy, BCN Khoa luôn chú trọng đào tạo bồi dưỡng đạo đức nhân cách người giáo viên cho sinh viên sư phạm; quan tâm dìu dắt sinh viên trong mọi lĩnh vực đời sống tinh thần, hoạt động học tập, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp. Cụ thể là:

- Xây dựng hình ảnh của Khoa Sư phạm gắn với truyền thống gần 70 năm đào

tạo ngành Sư phạm. Qua đó để sinh viên nhận thức được vai trò tu dưỡng rèn luyện phẩm chất nhân cách xứng đáng với đơn vị đào tạo có tính chất truyền thống của Trường Đại học Hà Tĩnh. Sinh viên phải có trách nhiệm kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Khoa Sư phạm. Khoa là đơn vị duy nhất của Trường có phòng truyền thống được đưa vào sử dụng từ ngày 26/3/2023.

- Đưa sinh viên xuống Trường mầm non, Trường Phổ thông thực hành từ năm thứ nhất, thứ hai để các em có những trải nghiệm nghề nghiệp ngay từ những năm đầu tiên thời sinh viên. Trường ĐH Hà Tĩnh hiện có trường mầm non, Trường TH, THCS, THPT thực hành tạo điều kiện cho sinh viên có điều kiện tiếp xúc sớm với môi trường nghề nghiệp. Nhà trường và khoa cũng quản lý chặt chẽ các đợt thực tập sư phạm ở những năm học thứ 3, thứ 4 nắm bắt theo dõi tiến trình tu dưỡng nghề nghiệp của từng sinh viên.

- Thường xuyên tổ chức các đợt sinh hoạt văn nghệ, thể dục thể thao gắn với các ngày hội lớn của ngành GD, của Trường. Trong các chương trình văn hóa văn nghệ đã làm nổi bật hình ảnh quê hương đất nước, hình ảnh của nền GD Việt Nam, hình ảnh sáng ngời về người thầy. Qua đó các em sinh viên cũng nhận thức sâu sắc hơn về đạo đức nghề nghiệp, củng cố niềm tin và say mê với nghề nghiệp đã chọn. Khoa khuyến khích sinh viên tham gia các câu lạc bộ đội nhóm Đoàn trường, Liên chi đoàn khoa quản lý trong đó có nhiều đội nhóm có tính giáo dục cao, góp phần hình thành đạo đức nhân cách, tình yêu thương, rèn luyện ý thức nghề nghiệp, trau cho sinh viên ngành sư phạm.

- Chỉ đạo Liên chi đoàn quản lý chặt chẽ các buổi sinh hoạt chi đoàn về các đợt sinh hoạt chính trị, tuyên truyền học tập đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, rèn luyện đạo đức nhân cách nhà giáo gắn với người đoàn viên thanh niên trong thời đại Hồ Chí Minh. Tăng cường phát triển Đảng trong sinh viên để các em phấn đấu tu dưỡng đạo đức nhân cách. Phát huy tinh thần tinh thần tiền phong gương mẫu của các Đảng viên sinh viên trong từng chi đoàn và tập thể lớp. Trong các buổi sinh hoạt các chi đoàn gửi bài hát sinh hoạt tập thể và hàng tháng chọn đăng trong fanpage Khoa.

- Đưa hoạt động sinh viên rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thành phong trào sâu rộng trong toàn thể sinh viên. Khoa đã tạo điều kiện để sinh viên có thể rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ngay trên giảng đường và khu ký túc xá. Hàng năm triển khai tháng nghiệp vụ sư phạm đến từng chi đoàn, tổ chức thi nghiệp vụ sư phạm cấp khoa. Các nội dung thi nghiệp vụ sư phạm gắn với việc hình thành nhân cách nhà giáo, kỹ năng nghề nghiệp của người giáo viên. Trước các đợt thực tập sư phạm, nhà Trường và Khoa phối hợp mời các chuyên gia, các nhà quản lý ngành giáo dục (tại SGD, các PGD) về phổ biến, cập nhật những định hướng mới về phương pháp giảng dạy, hoạt động giáo dục mới đang được triển khai trong ngành GD của tỉnh nhà.

- Tăng cường khả năng tự học của sinh viên Khoa Sư phạm bằng cách yêu cầu đọc thư viện, khuyến khích sinh viên làm tiểu luận thay thế môn học, viết bài nội san Khoa học giáo dục, động viên sinh viên làm Khóa luận tốt nghiệp, làm đề tài SV NCKH đặc biệt khuyến khích công bố Khoa học của sinh viên trên các tạp chí có chỉ số. Năm học 2024 – 2025, trong toàn khoa có 09 bài báo của SV trong đó có 01 bài báo quốc tế ISI, 01 sinh viên được giải nhì NCKH cấp Bộ và một nhóm NC được mời báo cáo tại Hội nghị SV NCKH của Trường ĐHGD trực thuộc ĐHQG Hà Nội. Một điểm đáng chú ý đối với hoạt động tự học của SV Khoa SP là bất cứ Đảng viên sinh viên, cảm tình Đàng trước khi đươc xét kết nạp, xét chuyển chính thức bắt buộc phải có kết quả NCKH hoặc rèn luyện NVSP đồng thời phải đọc 01 quyển sách nào đó và viết nhận xét. Đối với ĐV sinh viên năm cuối làm Khóa luận tốt nghiệp là yêu cầu bắt buộc.

- Khuyến khích sinh viên cập nhật những đổi mới của nền GD trong giai đoạn hiện nay. Tăng cường kỹ năng ứng dụng công nghệ trong các hoạt động liên quan đến rèn nghề. SV Khoa Sư phạm có đủ kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo, các phần mềm ứng dụng trong dạy và học. Trong những năm qua trong các hoạt động rèn luyện NVSP, làm đề tài NCKH và làm Khóa luận tốt nghiệp SV Khoa Sư phạm đã làm nổi bật được kỹ năng sử dụng các phần mềm hỗ trợ dạy học và những ứng dụng của Trí tuệ nhân tạo.

Với truyền thống gần 70 năm đào tạo ngành Sư phạm, sự tâm huyết của chi bộ, BCN khoa và toàn thể cán bộ, giảng viên và nhân viên khoa chúng tôi sẽ tiếp bước các thế hệ đi trước đào tạo các em sinh viên vừa có đạo đức trong sáng, yêu nghề mến trẻ, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng để tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp giáo dục đầy chông gai, gian khó mà vô cùng vẻ vang./.