
Lời giới thiệu: Sáng ngày 25/12/2025, tại Hội nghị tổng kết công tác Đảng của Đảng bộ Trường Đại học Hà Tĩnh, đảng viên Trần Thị Ngọc – sinh viên K16-GDTH đã thay mặt chi bộ Khoa Sư phạm phát biểu về công tác NCKH của sinh viên Khoa. Chúng tôi trân trọng đăng toàn văn bài phát biểu của bạn Trần Thị Ngọc tại hội nghị.
Kính thưa quý vị đại biểu!
Kính thưa đồng chí Bí thư Đảng bộ, các đồng chí trong Ban thường vụ, Ban chấp hành Đảng ủy!
Kính thưa các đồng chí Đảng viên thuộc Đảng bộ Trường Đại học Hà Tĩnh!
Tên tôi là Trần Thị Ngọc, sinh viên K16 GDTH, Đảng viên sinh viên thuộc chi bộ Khoa Sư phạm. Tôi rất vinh dự được chi ủy Khoa Sư phạm phân công thay mặt chi bộ trình bày tham luận tại hội nghị tổng kết công tác Đảng năm học 2025 – 2026. Đầu tiên cho phép tôi kính chúc sức khỏe quý vị đại biểu, các đồng chí trong Ban thường vụ, Ban chấp hành và tất cả các đồng chí Đảng viên dự hội nghị! Chúc hội nghị thành công tốt đẹp!

Đảng viên, sinh viên Trần Thị Ngọc – K16 GDTH trình bày tham luận tại Hội nghị Tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2025 – 2026
Kính thưa các đồng chí!
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo chủ trương của Đảng và Nhà nước; yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên ngày càng được đặt ra cấp thiết. Đối với các cơ sở đào tạo sư phạm, bên cạnh nhiệm vụ giảng dạy, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa thiết thực trong việc hình thành tư duy khoa học, năng lực nghề nghiệp và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn giáo dục.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi xin được trình bày tham luận với chủ đề: “Phát huy vai trò chi bộ trong lãnh đạo chỉ đạo việc nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học trong sinh viên”.
1. Ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với sinh viên sư phạm
Nghiên cứu khoa học trong sinh viên sư phạm không chỉ nhằm tạo ra các sản phẩm khoa học, mà quan trọng hơn là góp phần:
- Rèn luyện tư duy khoa học, tư duy phản biện và năng lực sáng tạo cho sinh viên;
- Giúp sinh viên gắn kết chặt chẽ giữa lý luận giáo dục với thực tiễn giảng dạy ở trường phổ thông;
- Nâng cao chất lượng học tập, thực tập sư phạm và khóa luận tốt nghiệp;
- Hình thành phẩm chất, tác phong làm việc khoa học – những yếu tố cần thiết đối với người giáo viên trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện nay.
Do đó, việc tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học cho sinh viên là nhiệm vụ quan trọng, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên của Đảng bộ Trường Đại học Hà Tĩnh nói chung và Chi bộ Khoa Sư phạm nói riêng.
2. Vai trò của Chi bộ khoa Sư phạm trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Chi bộ Khoa Sư phạm giữ vai trò hạt nhân chính trị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Trước hết, chi bộ có trách nhiệm định hướng tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên và sinh viên về vị trí, ý nghĩa của nghiên cứu khoa học trong đào tạo giáo viên.
Thông qua nghị quyết, chương trình công tác hằng năm, chi bộ lãnh đạo việc tổ chức triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học trong khoa; chỉ đạo đội ngũ giảng viên, đặc biệt là đảng viên, tích cực tham gia hướng dẫn sinh viên nghiên cứu, gắn nghiên cứu khoa học với đổi mới phương pháp giảng dạy và thực tiễn giáo dục phổ thông.
Đồng thời, chi bộ phát huy vai trò nêu gương của đảng viên trong nghiên cứu khoa học, tạo môi trường học thuật nghiêm túc, lành mạnh góp phần khơi dậy tinh thần học tập, nghiên cứu và sáng tạo trong sinh viên.
3. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Khoa Sư phạm hiện nay
3.1. Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Nhà trường và sự chỉ đạo trực tiếp của Chi bộ Khoa Sư phạm, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên đã có những chuyển biến tích cực. Nhận thức của giảng viên và sinh viên về vai trò của nghiên cứu khoa học từng bước được nâng lên; một số sinh viên đã chủ động tham gia các đề tài nghiên cứu, hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học các cấp. Cụ thể:
- Số lượng sinh viên tham gia NCKH tăng đều qua các năm. Một số đề tài đạt giải thưởng cao, tiêu biểu trong năm học 2024 - 2025:
+ Sinh viên Nguyễn Viết Quân (lớp K14 Sư phạm Toán) đạt Giải Nhì Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2025 với đề tài: “ Một số tính chất của toán tử chiếu metric trong không gian Hilbert”.
+ Hai sinh viên Võ Thị Vân Anh và Nguyễn Khánh Uyên được mời báo cáo tại Hội nghị SV NCKH của Trường Đại học Giáo dục với đề tài: Ứng dụng công nghệ mô phỏng 3D trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội 3 và môn Khoa học 4.
+ Sinh viên Phan Thị Quỳnh (lớp K14A GDTH) đạt giải Nhất giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học cấp Trường với đề tài “ Phát triển tư duy phản biện cho học sinh lớp 3 qua dạy học môn tự nhiên và xã hội tại trường tiểu học Cẩm Thành – Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh”
+ Sinh viên Nguyễn Thị Trà Giang (Lớp K14A GDTH) đạt giải Nhì giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học cấp Trường với đề tài “Sử dụng các phần mềm AI trong dạy học một số nội dung môn Toán lớp 3”.
+ Năm học 2024 – 2025 cũng ghi nhận khoảng 10 bài báo công bố trên các tạp chí khoa học của sinh viên Khoa Sư phạm đặc biệt có 1 công bố trên tạp chí quốc tế.
3.2. Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Khoa Sư phạm vẫn còn một số hạn chế cần thẳng thắn nhìn nhận:
- Tỷ lệ sinh viên tham gia NCKH vẫn còn thấp so với yêu cầu của một khoa đào tạo giáo viên.
- Vẫn còn tình trạng sinh viên chỉ tham gia NCKH để “đủ điểm” xét học bổng, xét tốt nghiệp, thiếu đam mê và động lực nghiên cứu thực sự.
- Chất lượng một số đề tài còn chung chung, thiếu chiều sâu khoa học, ít tính ứng dụng thực tiễn trong môi trường giáo dục phổ thông.
- Sự phối hợp giữa chi bộ, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong tổ chức phong trào NCKH chưa thực sự chặt chẽ, thường xuyên.
Những hạn chế trên cho thấy, để thực sự đưa phong trào NCKH trong sinh viên Khoa Sư phạm đi vào chiều sâu, đạt chất lượng cao, cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chi bộ Khoa Sư phạm – hạt nhân chính trị ở cơ sở.
4. Một số giải pháp cụ thể để chi bộ phát huy vai trò lãnh đạo
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, khơi dậy khát vọng nghiên cứu khoa học Chi bộ cần đưa nội dung giáo dục về vai trò của NCKH vào các buổi sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt chuyên đề, hội nghị cán bộ, đảng viên và sinh viên. Nhấn mạnh Nghiên cứu khoa học không chỉ là nhiệm vụ học tập, mà là trách nhiệm của người thầy tương lai – người sẽ truyền lửa đam mê học tập cho hàng ngàn học sinh, sinh viên sau này. Mỗi đảng viên phải là tấm gương tham gia NCKH, hướng dẫn sinh viên, đồng hành cùng sinh viên trong các đề tài.
- Tiếp tục thực hiện và phát huy nghị quyết: “đưa tiêu chí NCKH và Rèn luyện NVSP vào tiêu chuẩn xét kết nạp Đảng viên và xét chuyển chính thức cho Đảng viên dự bị” của chi bộ nhiệm kỳ 2020 – 2022 (đã tiếp tục thực hiện và bổ sung trong nhiệm kỳ 2022 – 2024; cụ thể tháng 8/2021 nghị quyết được thông qua và được bổ sung vào tháng 5/2023) với những kế hoạch hành động cụ thể. Nghiên cứu đưa chỉ tiêu SV NCKH vào nghị quyết Đại hội Chi bộ, nhiệm kỳ 2027 – 2030, cụ thể:
+ Trong nhiệm kỳ 2027 - 2030, tỷ lệ sinh viên tham gia NCKH đạt trên 30% và trên 50% trong giai đoạn tiếp theo.
+ Hàng năm có ít nhất 2–3 công trình đạt giải nhì SV NCKH cấp trường trở lên.
+ Có ít nhất 1–2 công trình được áp dụng thực tiễn tại các trường phổ thông, trường tiểu học trên địa bàn tỉnh.
+ Xây dựng cơ chế khen thưởng rõ ràng: sinh viên đạt giải cấp trường trở lên được cộng điểm rèn luyện, ưu tiên xét học bổng, xét tốt nghiệp.
- Phát huy vai trò nêu gương của Đảng viên, các giảng viên có học vị cao: đặc biệt Đảng viên có học vị Tiến sĩ, giảng viên có học vị Tiến sĩ, Đảng viên đang đi học Nghiên cứu sinh trong hướng dẫn sinh viên. Mỗi đảng viên giảng viên có học vị Tiến sĩ đăng ký chỉ tiêu cụ thể:
+ Hướng dẫn ít nhất 1–2 đề tài NCKH sinh viên/năm.
+ Tham gia hội đồng chấm giải NCKH cấp khoa, cấp trường.
+ Hỗ trợ sinh viên hoàn thiện bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, khoa học giáo dục... Tổ chức “Ngày hội đảng viên, giảng viên có học vị Tiến sĩ cùng sinh viên nghiên cứu khoa học” định kỳ 2 lần/năm để chia sẻ kinh nghiệm, kết nối ý tưởng.
- Chi bộ lãnh đạo các tổ chức chính trị xã hội: Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên để tuyên truyền, động viên khuyến khích phong trào SV NCKH; tiếp tục củng cố và phát huy vai trò các CLB Đảng viên SV, CLB SV NCKH của Liên chi đoàn.
- Tổ chức các cuộc thi: “Sinh viên Khoa Sư phạm với NCKH”, “Thiết kế bài giảng sáng tạo”, “Ý tưởng đổi mới giáo dục”, kết nối với các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh để chuyển giao sản phẩm.
- Đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ từ Nhà trường
Chi bộ kiến nghị Ban Giám hiệu:
+ Tăng kinh phí hỗ trợ NCKH cho sinh viên Khoa Sư phạm.
+ Đưa thành tích NCKH vào tiêu chí đánh giá thi đua, xét học bổng, xét tốt nghiệp, xét kết nạp Đảng trong toàn Đảng Bộ.
+ Tạo điều kiện cho giảng viên trẻ, đảng viên trẻ tham gia hướng dẫn sinh viên.
5. Kết luận
Kính thưa các đồng chí!
Phát huy vai trò Chi bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên là nhiệm vụ chính trị quan trọng, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, hình thành ở sinh viên tư duy khoa học, tinh thần đổi mới sáng tạo và bản lĩnh nghề nghiệp trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
Trước yêu cầu ngày càng cao của giáo dục phổ thông, vai trò định hướng, nêu gương và lãnh đạo của Chi bộ Khoa Sư phạm càng có ý nghĩa then chốt, bảo đảm hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên đi đúng hướng, thiết thực và hiệu quả.
Với tinh thần đoàn kết và trách nhiệm cao, tôi tin rằng Chi bộ Khoa Sư phạm – Trường Đại học Hà Tĩnh sẽ tiếp tục phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo, đưa hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên ngày càng phát triển, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục trong giai đoạn mới.
Xin trân trọng cảm ơn!

“Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là giữ gìn linh hồn của một dân tộc”
Trong bối cảnh hội nhập và hiện đại hóa, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện những phẩm chất cá nhân cần thiết, mà còn phải gắn liền với việc truyền tải và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống. Đặc biệt trong dịp lễ cuối năm, khi không khí Tết Nguyên Đán lan tỏa khắp nơi chính là thời điểm vàng để trẻ em vừa học kỹ năng sống, vừa thấm nhuần tinh thần dân tộc, để từ đó hình thành nhân cách toàn diện.
Cuối năm là thời điểm đặc biệt, khi trường lớp rộn ràng với các hoạt động tổng kết, liên hoan, hội chợ xuân, văn nghệ chào năm mới. Đây là môi trường thuận lợi để học sinh được trải nghiệm, giao lưu và rèn luyện kỹ năng sống một cách tự nhiên. Quan trọng hơn, thông qua những hoạt động như trò chơi dân gian, múa hát truyền thống, gói bánh chưng, viết câu đối đỏ, trẻ còn được tiếp xúc với những nét đẹp văn hóa lâu đời. Trong bối cảnh trẻ em ngày càng gắn bó nhiều với công nghệ và mạng xã hội, thì việc đưa các em trở về với những giá trị văn hóa dân tộc lại càng có ý nghĩa, giúp trẻ kết nối trực tiếp với bạn bè, thầy cô, cộng đồng và với chính cội nguồn của mình.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học trong dịp lễ cuối năm là cần thiết bởi nó giúp trẻ hình thành những phẩm chất quan trọng. Các em học cách giao tiếp lễ phép qua lời chúc mừng, cảm ơn, xin lỗi; học cách hợp tác khi cùng nhau chuẩn bị văn nghệ, trang trí lớp học; học cách quản lý thời gian khi vừa phải hoàn thành bài tập vừa tham gia hoạt động; học cách tự phục vụ qua việc chuẩn bị đồ dùng cá nhân, giữ gìn vệ sinh; và học cách thể hiện bản thân qua biểu diễn, thuyết trình, chia sẻ cảm nghĩ. Đặc biệt, thông qua các hoạt động mang đậm bản sắc dân tộc, trẻ còn được nuôi dưỡng lòng tự hào, ý thức bảo tồn văn hóa và tinh thần sẻ chia.
Thực tế cho thấy, nhiều trường tiểu học đã triển khai thành công các hoạt động cuối năm gắn với giáo dục kỹ năng sống và văn hóa dân tộc. Hội chợ xuân với gian hàng trò chơi dân gian, ngày hội ẩm thực với món ăn truyền thống, chương trình văn nghệ chào năm mới với điệu múa, làn điệu dân ca, hay hoạt động thiện nguyện đều trở thành môi trường để học sinh vừa rèn kỹ năng, vừa tiếp nhận và lan tỏa giá trị văn hóa. Những kỹ năng và giá trị ấy không chỉ dừng lại ở khoảnh khắc vui chơi, mà còn mang lại lợi ích lâu dài: giao tiếp lễ phép giúp các em hòa nhập xã hội; tinh thần hợp tác khiến các em trở thành công dân có trách nhiệm; khả năng quản lý thời gian hình thành thói quen học tập khoa học; tính tự phục vụ giúp các em tự lập hơn; tinh thần sẻ chia nuôi dưỡng lòng nhân ái; và ý thức bảo tồn văn hóa giúp các em trở thành thế hệ kế thừa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Các chuyên gia giáo dục quốc tế cũng khẳng định vai trò của kỹ năng sống trong giáo dục tiểu học. UNESCO từng nhấn mạnh trong báo cáo về “Giáo dục cho thế kỷ XXI” rằng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để làm người” là bốn trụ cột quan trọng của giáo dục hiện đại. Trong đó, kỹ năng sống chính là cầu nối để trẻ em có thể vận dụng kiến thức vào thực tiễn, biết cách chung sống hài hòa và phát triển nhân cách toàn diện. Nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Phần Lan đã đưa kỹ năng sống vào chương trình giáo dục tiểu học thông qua các hoạt động lễ hội, trải nghiệm cộng đồng, và kết quả cho thấy học sinh tự tin hơn, gắn kết hơn và có trách nhiệm hơn với xã hội. Với Việt Nam, việc lồng ghép kỹ năng sống vào các hoạt động lễ hội truyền thống càng có ý nghĩa đặc biệt, bởi nó giúp thế hệ trẻ vừa hội nhập quốc tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc.
Trong tất cả những hoạt động ấy, vai trò của giáo viên và phụ huynh hết sức quan trọng. Giáo viên là người định hướng, tổ chức và khích lệ học sinh tham gia tích cực, còn phụ huynh là người đồng hành, hỗ trợ và tạo môi trường gia đình thân thiện để trẻ áp dụng những kỹ năng đã học. Khi nhà trường và gia đình phối hợp chặt chẽ, việc giáo dục kỹ năng sống gắn với văn hóa dân tộc sẽ đạt hiệu quả cao hơn, giúp học sinh không chỉ vui chơi mà còn trưởng thành hơn sau mỗi hoạt động.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học trong dịp lễ cuối năm là một chủ đề mang tính thời sự, bởi nó đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội; là cần thiết, bởi nó giúp trẻ phát triển toàn diện; và là khả thi, bởi nó có thể được thực hiện thông qua những hoạt động gần gũi, thiết thực. Quan trọng hơn, đây còn là cơ hội để truyền tải, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc trong thế hệ trẻ. Giáo dục kỹ năng sống trong dịp lễ cuối năm không chỉ là rèn luyện nhân cách, mà còn là hành trình gìn giữ và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc cho thế hệ mai sau.

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng được tích hợp vào lĩnh vực giáo dục, mang lại những tác động đáng kể đến sự phát triển năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên sư phạm 1,2. Việc này không chỉ thay đổi phương pháp giảng dạy truyền thống mà còn mở ra nhiều cơ hội mới để nâng cao kỹ năng tư duy bậc cao, đặc biệt là kỹ năng giải quyết vấn đề, cho giáo viên tương lai 1,3.
Các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh vai trò của AI trong việc tạo ra các môi trường học tập thích ứng, nơi nội dung và phương pháp giảng dạy có thể được điều chỉnh linh hoạt theo năng lực và phản hồi của từng sinh viên 1. Điều này giúp cá nhân hóa trải nghiệm học tập và có tác động sâu sắc đến việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề 1. Chẳng hạn, các hệ thống gia sư thông minh (ITS) và phần mềm viết tự động được hỗ trợ bởi AI có thể tạo ra các tình huống học tập dựa trên vấn đề, khuyến khích sinh viên sư phạm suy nghĩ sâu sắc và đưa ra giải pháp 4. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc sử dụng các công cụ AI có thể cải thiện khả năng tư duy phản biện và suy luận logic, những yếu tố cốt lõi của năng lực giải quyết vấn đề 5.

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, việc tích hợp AI cũng đặt ra những thách thức. Một trong những lo ngại chính là khả năng sinh viên quá phụ thuộc vào AI, dẫn đến suy giảm kỹ năng tư duy phản biện 6,7. Điều này xảy ra khi sinh viên dựa vào các giải pháp tự động mà không thực sự hiểu được quy trình giải quyết vấn đề hoặc phát triển khả năng suy nghĩ độc lập 7. Một nghiên cứu về sinh viên đại học đã chỉ ra rằng việc phụ thuộc vào AI có thể ảnh hưởng đến kết quả ra quyết định và cách sinh viên tiếp cận các nhiệm vụ giải quyết vấn đề phức tạp 8. Điều quan trọng là phải tìm ra sự cân bằng phù hợp giữa việc tận dụng lợi ích của AI và đảm bảo sinh viên vẫn phát triển các kỹ năng nhận thức cần thiết 9.
Để giải quyết vấn đề này, một số chương trình giáo dục đã được phát triển để tăng cường năng lực giải quyết vấn đề cho sinh viên sư phạm thông qua AI. Ví dụ, chương trình giáo dục hội tụ AI dựa trên kể chuyện và giải quyết vấn đề thực tế đã được áp dụng cho sinh viên sư phạm tin học, cho thấy hiệu quả tích cực trong việc nâng cao năng lực hội tụ 10. Một nghiên cứu khác đã phát triển một mô phỏng tăng cường AI tổng quát (GenAI) nhằm cải thiện năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên sư phạm bằng cách tạo ra một môi trường ảo để họ thực hành và áp dụng kiến thức lý thuyết vào các tình huống thực tế 2. Các giáo viên tương lai cần được trang bị để giải quyết các vấn đề phức tạp trong các bối cảnh giảng dạy và học tập đa dạng, và các chương trình đào tạo giáo viên thường gặp khó khăn trong việc thu hẹp khoảng cách giữa kiến thức lý thuyết và ứng dụng thực tế 2.
Các mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) đã được sử dụng để giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo viên áp dụng công nghệ trong thực hành giảng dạy của họ 11. Điều này đặc biệt quan trọng đối với AI, khi mà sự hiểu biết và kinh nghiệm sử dụng AI của giáo viên có thể ảnh hưởng đến mức độ hiệu quả của việc tích hợp AI vào lớp học 7. Thực tế cho thấy, việc thiếu sự hiểu biết, kinh nghiệm và hỗ trợ đào tạo về AI là những rào cản đáng kể đối với giáo viên 7.
Nhận thức của sinh viên sư phạm về AI và vai trò của nó trong giáo dục cũng rất đa dạng, từ lạc quan đến thận trọng 12. Một số coi AI là công cụ hỗ trợ quý giá, trong khi những người khác lo ngại về những tác động tiêu cực tiềm tàng, chẳng hạn như suy giảm kỹ năng tư duy phản biện 7,13. Nghiên cứu về giáo viên tiền dịch vụ STEM và phi STEM cũng cho thấy thái độ và sự lo lắng của họ đối với AI có thể khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực học tập 14.
Một số nghiên cứu đã tập trung vào việc phát triển các khung kiến thức sư phạm công nghệ nội dung AI (AI-TPACK) để hỗ trợ sinh viên sư phạm trong việc tích hợp AI vào giảng dạy khoa học 15,16. Khung này cung cấp một nền tảng có cấu trúc để kết hợp kiến thức công nghệ, sư phạm và nội dung, giúp giáo viên tương lai chuẩn bị tốt hơn cho việc sử dụng AI trong lớp học 15.
Tóm lại, AI có tiềm năng lớn trong việc nâng cao năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên sư phạm thông qua các môi trường học tập cá nhân hóa, hệ thống phản hồi tự động và mô phỏng thực tế 1,2,17. Tuy nhiên, cần có các chiến lược giáo dục cẩn thận để đảm bảo rằng sinh viên không quá phụ thuộc vào AI và vẫn phát triển các kỹ năng tư duy bậc cao cần thiết 6,9. Việc đào tạo và hỗ trợ giáo viên về AI, cùng với việc phát triển các khung kiến thức phù hợp, sẽ là chìa khóa để khai thác tối đa lợi ích của AI trong giáo dục 7,15,16.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Thực hiện kế hoạch đào tạo năm học 2025 - 2026, Khoa Sư phạm đã tổ chức các buổi bảo vệ đề cương khóa luận tốt nghiệp cho sinh viên năm cuối. Đây là hoạt động học thuật có ý nghĩa quan trọng, nhằm đánh giá bước đầu chất lượng đề tài nghiên cứu, đồng thời giúp sinh viên định hướng rõ ràng hơn cho quá trình thực hiện khóa luận trong thời gian tới. Các buổi bảo vệ được tổ chức nghiêm túc, đúng quy trình, thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của BCN Khoa, các tổ chuyên môn Khoa sư phạm đối với công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học sinh viên.

Tổ Sinh – Địa tổ chức báo cáo đề cương khoa luận tốt nghiệp
Khoa Sư phạm đã tổ chức buổi bảo vệ đề cương khóa luận tốt nghiệp theo các chuyên môn của các Tổ bộ môn theo hình thức trực tiếp và trực tuyến. Buổi bảo vệ diễn ra trong không khí nghiêm túc với sự tham dự của hội đồng khoa học, giảng viên hướng dẫn và các sinh viên thực hiện khóa luận. Tại buổi bảo vệ, các sinh viên đã trình bày rõ ràng, mạch lạc nội dung đề cương nghiên cứu, từ lý do lựa chọn đề tài, mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đến phương pháp và kế hoạch thực hiện. Những nội dung về việc thiết kế và sử dụng các hoạt động dạy học theo hướng phát triển năng lực, ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cao tư duy hình học, tư duy logic cho học sinh. Nhiều đề tài được đánh giá có tính thực tiễn cao, gắn với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Trong phần nhận xét và phản biện, các thành viên hội đồng đã dành thời gian trao đổi kỹ lưỡng với từng sinh viên. Bên cạnh việc ghi nhận tinh thần nghiên cứu nghiêm túc và sự đầu tư công phu trong quá trình xây dựng đề cương, hội đồng cũng thẳng thắn chỉ ra những nội dung cần điều chỉnh về cấu trúc, phạm vi nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề. Những ý kiến góp ý mang tính khoa học và định hướng rõ ràng đã giúp sinh viên hiểu sâu hơn về đề tài của mình, từ đó có cơ sở để chỉnh sửa và hoàn thiện đề cương trước khi triển khai nghiên cứu chính thức. .
Thông qua trao đổi hai chiều, sinh viên có cơ hội bảo vệ quan điểm nghiên cứu của mình, đồng thời tiếp thu những ý kiến chuyên môn sâu sắc từ các giảng viên giàu kinh nghiệm. Điều này không chỉ giúp sinh viên hoàn thiện đề cương mà còn rèn luyện kỹ năng trình bày, phản biện và sử dụng công nghệ trong học tập và nghiên cứu khoa học.

Tổ Toán tổ chức báo cáo đề cương khoa luận tốt nghiệp theo hình thức online
Các buổi bảo vệ đề cương khóa luận tốt nghiệp là bước khởi đầu quan trọng trong quá trình thực hiện khóa luận của sinh viên năm cuối. Hoạt động này góp phần hình thành tư duy nghiên cứu khoa học, nâng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu và tinh thần trách nhiệm của sinh viên đối với sản phẩm học thuật của mình. Đồng thời, đây cũng là dịp để giảng viên nắm bắt kịp thời tiến độ, chất lượng nghiên cứu của sinh viên, từ đó có những định hướng, hỗ trợ phù hợp trong quá trình hướng dẫn.

Lời giới thiệu: Trong đêm chung kết Hội thi NVSP bài hùng biện của bạn Trần Thị Ngọc sinh viên K16 GDTH về chủ đề: “Tự do ngôn luận trong kỷ nguyên số hóa” được ban giám khảo đánh giá cao. Chúng tôi xin trân trọng đăng toàn văn nội dung bài hùng biện của bạn Trần Thị Ngọc.
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên công nghệ số phát triển như vũ bão, nơi mỗi người chỉ với một chiếc điện thoại đã có thể chia sẻ quan điểm, bày tỏ thái độ và tác động đến hàng nghìn, thậm chí hàng triệu người. Trong bối cảnh đó, tự do ngôn luận trở thành quyền vô cùng quan trọng, thúc đẩy dân chủ, sáng tạo vào sự phát triển xã hội. Nhưng cũng chính trong không gian mở ấy, tự do ngôn luận lại đối diện với nhiều thách thức: tin giả, ngôn từ xúc phạm, xuyên tạc, công kích, chống phá,…Vậy câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để chúng ta sử dụng quyền tự do ngôn luận mà không vượt khỏi ranh giới của trách nhiệm?

Thứ nhất: Tự do ngôn luận là quyền quan trọng và là nền tảng của xã hội văn minh.
Quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người, cho phép mỗi cá nhân được tự do bày tỏ suy nghĩ, ý kiến và quan điểm của mình về mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Nhờ đó tri thức lan tỏa, các vấn đề xã hội được thảo luận rộng rãi và tiếng nói của mỗi người được tôn trọng.
Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý rằng, quyền tự do ngôn luận không phải là “giấy phép vĩnh viễn” để muốn nói gì cũng được. Một phát ngôn sai lệch có thể lan truyền với tốc độ chóng mặt, gây hiểu lầm, tổn hại danh dự người khác, thậm chí ảnh hưởng đến an ninh và trật tự xã hội.
Ví dụ, đầu năm 2025 trên mạng xã hội xuất hiện tin giả về việc sáp nhập các tỉnh thành khiến dư luận hoang mang và buộc các cơ quan chức năng phải vào cuộc xử lý. Điều này cho thấy rằng, tự do ngôn luận luôn phải đặt trong khuôn khổ pháp luật và chuẩn mực đạo đức, bởi thiếu giới hạn tự do sẽ trở thành hỗn loạn.
Thứ hai: Việc xác lập giới hạn cho tự do ngôn luận là cần thiết để bảo vệ cộng đồng và duy trì trật tự xã hội.
Theo Hiến pháp năm 2013 của nước ta, điều 25 quy định rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.” Điều này khẳng định quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ, đồng thời nhấn mạnh rằng quyền này phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý và có những giới hạn nhất định. Vậy đó là những giới hạn nào?
Thứ nhất, không được xâm phạm danh dự nhân phẩm người khác; Thứ hai, không được tuyên truyền thông tin sai sự thật, bịa đặt hoặc gây hoang mang dư luận; Thứ ba, không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia; Thứ 4, không vu khống bịa đặt; Cuối cùng, không kích động bạo lực, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo hay phá hoại ổn định xã hội.
Những giới hạn này không nhằm ngăn cản tiếng nói của con người, mà bảo vệ mỗi tiếng nói được cất lên trong môi trường an toàn, minh bạch và có trách nhiệm. Nếu không có giới hạn, tự do ngôn luận sẽ trở thành mảnh đất màu mỡ cho hỗn loạn và tiêu cực.
Thứ ba: Trong kỷ nguyên số, trách nhiệm của mỗi cá nhân giữ vai trò quyết định đối với giá trị của tự do ngôn luận.
Mỗi người không chỉ có quyền nói, mà còn có trách nhiệm “biết nói thế nào cho đúng”. Vậy trách nhiệm đó là gì?
Trước hết, là trách nhiệm với chính lời nói của mình: kiểm chứng trước khi chia sẻ, suy nghĩ trước khi bình luận, hiểu rõ ranh giới giữa góp ý và công kích.
Thứ hai, là trách nhiệm với cộng đồng: góp phần lan tỏa thông tin tích cực, bảo vệ sự thật, phản bác tin giả thay vì tiếp tay cho nó. Mỗi người dùng Internet cần trở thành tấm lọc, không phải cái loa khuếch đại.
Cuối cùng, trách nhiệm còn nằm ở nhà nước và các nền tảng số: cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, đảm bảo mọi tiếng nói được tôn trọng nhưng phải nằm trong khuôn khổ luật pháp; đồng thời tăng cường xử lý các tài khoản lan truyền thông tin độc hại, tạo môi trường an toàn cho sự đối thoại và sáng tạo.
Kết luận
Để kết lại chủ đề ngày hôm nay, em xin trích dẫn một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: "Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp". Câu nói ấy nhắc chúng ta rằng tự do ngôn luận không chỉ là quyền, mà còn là trách nhiệm giữ gìn tiếng nói, văn hóa và phẩm chất con người trong xã hội hiện đại.
Tự do ngôn luận chỉ thực sự có ý nghĩa khi mỗi cá nhân biết tự đặt giới hạn cho lời nói của mình; biết dùng tiếng nói để xây dựng và lan tỏa sự thật thay vì để tin giả và thông tin sai lệch lấn át và làm méo mó nhận thức.
Và thông điệp mà em muốn gửi gắm đến thế hệ trẻ - những người đang sống, học tập và khẳng định mình trong môi trường số chính là: “Hãy trở thành công dân số thông minh và có trách nhiệm. Hãy nói điều cần nói, nói điều đúng, và nói với thái độ tôn trọng. Hãy để tiếng nói của mình góp phần tạo môi trường mạng văn minh và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.”